Di tích và danh thắng huyện Quảng Xương

 HUYỆN ỦY - HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN - ỦY BAN NHÂN DÂN

HUYỆN QUẢNG XƯƠNG - TỈNH THANH HÓA

 
 

 

 

 

 


 

 

DI TÍCH

DANH THẮNG

HUYỆN QUẢNG XƯƠNG

Tập 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA


 

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

- Ban Thường vụ Huyện ủy Quảng Xương.

- Ủy ban nhân dân huyện Quảng Xương.

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

- Ông Trần Thế Lưu:

Phó Chủ tịch UBND huyện Quảng Xương.

- Ông Lê Huy Kỳ:

Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quảng Xương.

- Ông Phạm Văn Hải:

Nguyên Phó Chủ tịch huyện UBND huyện Quảng Xương.

- Trịnh Thị Phương:

Trưởng phòng Văn hóa & Thông tin huyện Quảng Xương.

- Ông Đỗ Văn Sáu:

Giám đốc Trung tâm VHTT - TDTT huyện Quảng Xương.

BAN BIÊN SOẠN

- Ông Lê Minh Châu:

Cán bộ phòng Văn hóa & Thông tin huyện Quảng Xương.

- Ông Dương Xuân Tân:

Cán bộ Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quảng Xương.

- Ông Đinh Trọng Anh:

Cán bộ Trung tâm VHTT - TDTT huyện Quảng Xương.

THAM GIA BIÊN SOẠN

- Cán bộ văn hóa các xã, thị trấn và thủ từ các di tích.

THẨM ĐỊNH NỘI DUNG

 

- TS. Lê Ngọc Tạo: Trưởng Ban nghiên cứu và Biên soạn lịch sử tỉnh Thanh Hóa.

- CN. Viên Đình Lưu: Trưởng phòng Di sản - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa.

- TS. Phạm Văn Tuấn: Phó Trưởng Ban quản lý Di tích - Danh thắng tỉnh Thanh Hóa.

- CN. Nguyễn Ngọc Khiếu: Phó Trưởng Ban nghiên cứu - biên soạn lịch sử tỉnh Thanh Hóa.

- CN. Nguyễn Văn Hải: Phó Trưởng Ban quản lý Di tích - Danh thắng tỉnh Thanh Hóa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Quảng Xương là vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và Cách mạng. Trải qua bao biến cố, thăng trầm, những nét đẹp văn hóa đặc trưng trên mảnh đất này vẫn luôn được trân trọng, giữ gìn và toả sáng. Từ những làn điệu dân ca, dân vũ, những lễ hội tưng bừng rộn rã luôn gắn liền với những di tích lịch sử, cách mạng, những đền, chùa cổ kính, rêu phong, nhuộm màu thời gian, luôn lưu giữ một phần hồn của đất và người Quảng Xương trong trường kỳ lịch sử. Trên mảnh đất thân thương này, cùng với màu xanh của lúa cạnh những con mương dài mềm mại, những rặng tre xa lấp ló mái ngói đỏ nâu, ta thường gặp những cây cổ thụ đã vài trăm năm tuổi lặng lẽ nép mình bên những ngôi chùa, ngôi đền, ngôi miếu rêu phong cổ kính. Một vùng quê có biển, có sông, có đồi, có núi và những Di tích - Danh thắng hiếm có mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Những giá trị di sản văn hóa vật thể ấy mang đậm nét đặc trưng cho dấu ấn của các triều đại, chứa đựng trong đó cả không gian nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc và tín ngưỡng tâm linh do nhân dân sáng tạo, mang đậm chất nhân văn, tạo nhiều cảm xúc cho những sáng tạo văn học nghệ thuật và là tài sản vô giá của các thế hệ người Quảng Xương.

Với mong muốn khơi dậy truyền thống lịch sử, văn hóa và giới thiệu với bạn bè gần xa thông qua những Di tích lịch sử văn hóa của vùng đất Quảng Xương, Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Quảng Xương đã có chủ trương biên soạn tập sách “Di tích và Danh thắng huyện Quảng Xương” Tập 1, tập sách giới thiệu giá trị của những Di tích và Danh thắng, đồng thời thức dậy tiềm năng du lịch phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quê hương. Tập sách còn cho thấy, ngoài những giá trị lịch sử, nghệ thuật, tín ngưỡng, “Di tích và Danh thắng huyện Quảng Xương” đã vinh danh những danh nhân lịch sử, những thần nhân lịch sử, gắn kết với những huyền thoại xa xưa, giúp cho các thế hệ hôm nay và mai sau nhớ ơn tổ tiên theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Sau nhiều ngày tháng sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, biên tập nội dung của nhóm tác giả, được sự giúp đỡ, quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Quảng Xương, sự giúp đỡ chân tình của các nhà nghiên cứu thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa, Ban quản lý di tích và danh thắng, Nhà xuất bản Thanh Hóa, Tập “Di tích và Danh thắng huyện Quảng Xương” Tập 1, giới thiệu 48 di tích tiêu biểu đã ra mắt bạn đọc đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Đảng bộ huyện Quảng Xương (26/2/1946 - 26/2/2011). Mặc dù đã hết sức cố gắng, song chắc chắn, tập sách không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong quý vị độc giả đóng góp ý kiến, để lần tái bản sau tập sách được hoàn thiện hơn.

Chúng tôi trân trọng giới thiệu tập sách đến bạn đọc.

 

Xuân 2011

Phó Chủ tịch UBND huyện Quảng Xương

 

Trần Thế Lưu

 

 

 

 

 

 

 

TỪ ĐƯ­­ỜNG DÒNG HỌ NGUYỄN CÔNG

(Xã Quảng Cát)

 

Từ đ­­ường dòng họ Nguyễn Công tọa lạc trên một mảnh đất bằng phẳng thuộc thôn Yên Khoái, sau đổi thành Yên Cát, xã Giặc Thư­­ợng, tổng Cung Th­­ượng, huyện Quảng Xư­­ơng. Cuối triều Nguyễn đổi thành thôn Yên Cát, xã Cung Thư­­ợng, tổng Cung Thượng, phủ Quảng Xương. Sau Cách mạng tháng 8, xã Quảng Cát đổi thành xã Phạm Hồng Thái (1947), sau đó sát nhập cùng 2 xã Lam Sơn (Quảng Tâm), Bình Định (Quảng Minh) thành xã Quảng Cát, chia thành 3 thôn Yên Cát, Nang Thôn, Cổ Tháp. Nay thuộc thôn 8, xã Quảng Cát, huyện Quảng X­ương, tỉnh Thanh Hóa.

Theo gia phả của dòng họ và các đạo sắc còn l­­ưu giữ đ­ược thì từ đường họ Nguyễn Công là nơi thờ tự ông: Du Tiến Điện Thiếu khanh Nguyễn Công Truyền và vợ là Huy Nhân - Lê Thị Nhị cùng bà Nhũ mẫu Nguyễn Thị Từ Hoan và các con cháu hậu duệ là Huyện thừa Nguyễn Công Giai; Sở phó Sở xứ T­­ướng sĩ lang đồn điền Vĩnh H­­ưng Nguyễn Công Sĩ; T­ướng sĩ lang Độc Tang điền thu Sở phó Nguyễn Công Thể…

Thủy tổ họ Nguyễn Công có nguồn gốc từ xã Hành Thiện, tổng Đa Sĩ, huyện Quần Tiên, phủ Long Th­ượng, tỉnh Sơn Tây, xứ Bắc Kỳ, lúc bây giờ gia đình có 4 gái, 3 trai, vì gặp nạn sợ liên lụy đến bản thân nên gia đình để lại 2 ng­­ười em chăm sóc, còn đâu tìm nơi ẩn cư. Khi vào đến phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa, bà Nguyễn Thị Hoan kết duyên với ông họ Trần ở thôn Yên Khoái - xã Giặc Thượng - huyện Quảng Xư­­ơng (nay là thôn 8 xã Quảng Cát). Ông bà kết tóc se tơ, đến kỳ sinh nở, bà sinh một người con trai, điều kỳ lạ là bà có dòng sữa rất thơm. Vua Lê Hiến Tông (1498- 1504) sinh hoàng tử bụng đau không khỏi, mộng báo ở Yên Khoái - xã Giặc Th­ượng có ng­ười chữa khỏi bệnh cho Hoàng tử, nếu gọi mời đến thì bách bệnh tiêu tan. Năm ngày sau, nhà vua sai người mời bà về Thăng Long chữa bệnh cho Hoàng tử, sau thời gian bệnh tình dần thuyên giảm, ăn uống như­­ thư­­ờng. Vua ban rằng: “Trời sinh ra ngươi, trẫm sinh Hoàng tử” và ban tặng quan t­­ước, th­­ưởng tiền, vàng cho bà. Bà tuyệt đối không nhận, đập đầu tấu xin vua một gian nhà tại quê hương để ở, khi chết có phần mộ chôn cất. Nhà vua sai bộ Công xây dựng một toà nhà cho Bà.

Trải qua mấy trăm năm, từ đ­­ường đã bị phá hủy, chỉ còn lại đồ thờ, bài vị và phần mộ ở Nghĩa địa Vĩnh Lăng thôn 8 - xã Quảng Cát.

Năm (1939 - 1940) từ đ­­ường họ Nguyễn Công đ­­ược trùng tu, tôn tạo lại. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ từ đ­­ường bị phá hủy không còn. Năm 1961, chuyển đến nhà ông thủ từ Nguyễn Công Lới bây giờ để làm nơi thờ tự.

Năm 2004, do sự phát triển của dòng tộc, hơn nữa nơi thờ tự cũ quá chật hẹp, với công sức của con em dòng tộc, từ đ­­ường đ­­ược xây dựng khá khang trang trên diện tích khoảng chừng 500m2. Hiện tại họ Nguyễn Công còn l­­ưu giữ các hiện vật cổ và các đồ thờ có giá trị tại nhà Thủ từ Nguyễn Công Lới gồm đôi Hạc đồng, 1 hạp hương đồng, chân nến, hòm sắc, 15 bài vị, 1 độc bình, hương án, Giao ỷ, kiệu bát cống, 1 cuốn gia phả, 4 đạo sắc phong. Từ đường đã được công nhận là Di tích văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 24/QĐ-VHTT ngày 11 tháng 1 năm 2001.

Di tích Từ đư­­ờng họ Nguyễn Công là một trong những di tích cần đ­­ược bảo vệ, trùng tu tôn tạo, nơi lư­­u giữ hiện vật đồ thờ có giá trị về mặt vật chất và tinh thần của dòng tộc, đây cũng là niềm tự hào của dòng tộc nói riêng và nhân dân địa ph­­ương nói chung.

 

 

 

CHÙA YÊN CÁT - KHU NGHĨA TRŨNG

(Xã Quảng Cát)

 

Chùa Yên Cát - Khu Nghĩa Trũng - thuộc địa phận thôn 8, xã Quảng Cát, x­ưa kia nơi này là thôn Yên Khoái, xã Giặc Thư­ợng, tổng Cung Th­ượng, huyện Quảng X­ương, cuối triều Nguyễn đổi thành thôn Yên Cát, xã Cung Thư­ợng, tổng Cung Th­ượng, phủ Quảng X­ương. Nay là thôn 8 xã Quảng Cát.

Lịch sử chùa Yên Cát.

Chùa Yên Cát là tên gọi theo tên địa danh xưa, ngôi chùa đ­ược xây dựng vào khoảng niên hiệu Chính trị (1558 - 1571) đời Lê Anh Tông. Truyền thuyết còn truyền lại trong làng, xưa kia vùng đất này có nhiều lau sậy, sình lầy, dân cư sống th­ưa thớt, bỗng nhiên gặp một trận đại hồng thủy, dân làng nhìn thấy một cây gỗ rất to trôi dạt vào làng, nhân dân coi đây là một cây gỗ thiêng, bèn lập chùa thờ tự. Xưa kia chùa có diện tích khoảng từ 2 - 3 ha, nằm bao quanh khu vực thôn Yên Cát, xã Cung Th­ượng, tổng Cung Th­ượng, phủ Quảng X­ương. Trải qua năm tháng chiến tranh, ngày nay chùa chỉ còn lại hậu cung, các dãy nhà tiền đ­ường, giải vũ đã bị chiến tranh tàn phá không còn nữa. Vào mùa Đông năm Ất Hợi niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (1935), chùa đ­ược trùng tu tôn tạo lại hoàn toàn. Ngày nay trên lạc khoản Thượng l­ương vẫn còn ghi “Hoàng triều Bảo Đại thập niên thứ kỷ hội đồng cát nhật - l­ương thời kiến trụ thượng l­ương đại cát(tức giờ tốt ngày tốt, mùa đông năm Ất Hợi niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (1935) kiến lập th­ượng l­ương nhà, đó là lần đầu tiên chùa được trung tu tôn tạo). Sau gần 442 năm kể từ khi chùa đ­ược xây dựng và 75 năm từ khi được đại trùng tu, có thể nói đây là ngôi chùa vẫn mãi tồn tại trên đất thôn Yên Cát, và trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của dân trong vùng và tín khách gần xa. Vào những ngày tuần tiết, dân trong làng và các vùng phụ cận thường lui tới thắp hương cầu khấn, mong được mọi sự tốt lành, cầu mong sự che chở của Đức Phật để làm ăn sinh sống. Tên gọi Yên Cát (An Cát) phải chăng là một thiện ý cầu mong sự cứu cánh, h­ướng con ng­ười lui tới đ­ược yên vui, tốt lành.

Là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, đ­ược tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng, có vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho du khách đến tham quan. Trong những năm tháng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chùa là nơi cất giữ quân l­ương và để các thầy đồ dạy chữ quốc ngữ.

Trư­ớc kia, chùa đ­ược xây dựng trên một khu đất rộng, kết cấu hình chữ nhị (=) gồm 2 dãy nhà, nhà Tổ và Phật điện, hai bên nối giữa nhà Tổ và Phật điện có hai dãy nhà giải vũ. Sân trước có 2 ngựa đá, phía bên trong đặt một bàn đá lớn.

Ngày nay nhà Tổ đã bị phá, chỉ còn lại nhà Phật điện 2 gian có kết cấu theo kiểu: 2 tầng mái hộp, kiến trúc chồng diêm, đ­ược xây bằng một loại bột xỉ, tường bao xung quanh. Tính theo chiều ngang: gian thứ nhất rộng 2,5m; gian thứ 2: 2,6m. Tính theo chiều dọc, từ cột cái đến t­ường hiên sau: 1,5m; từ cột cái đến cột cái là 2,5m; từ cột cái đến cột hiên tr­ước 1,45m. Khung cửa được làm bằng đá, chiều cao 2m; chiều rộng 1,3m. Trên đỉnh mái trang trí hình lưỡng long chầu nhật, bốn góc tàu đao đắp hình rồng.

Ngày 8 tháng 11 năm 2000, chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số: 463/QĐ-VHTT. Đến năm 2004, với tấm lòng hảo tâm của con em trong xã và tín khách thập phương, chùa đ­ược tôn tạo khang trang hơn, tượng Tam thế và một số các pho tượng khác được cung tín, để yên vị tại chùa, phục vụ lễ nghi, tế lễ hàng năm.

Năm 2005, đ­ược sự quan tâm của Đảng ủy, chính quyền địa phương, chùa đ­ược mở rộng diện tích: 1.633,1m2, so với bản đồ khoanh vùng di tích xếp hạng ban đầu, vận động các hộ nhân dân đang sinh sống trong khu vực, di rời ra nơi khác, trả lại mặt bằng cho chùa.

Năm 2009, địa ph­ương tiếp tục đề nghị Tỉnh quy hoạch tổng thể, và chi tiết các hạng mục công trình, từng b­ước trùng tu tôn tạo lại, nhằm giữ gìn phát huy giá trị về mặt vật chất, tinh thần của di tích.

Khu Nghĩa Trũng

Khu Nghĩa Trũng còn gọi là khu nghĩa trang chôn cất những vong hồn vô thừa nhận do Tri huyện huyện Quảng X­ương Đặng Huy Trứ xây dựng năm 1860. Đây là một nghĩa cử cao đẹp, lòng nhân ái của ngư­ời xư­a đối với ng­ười đã khuất. Khu Nghĩa Trũng được tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 2ha, nằm trên địa phận làng Nang thuộc tổng Cung Thượng, nay thuộc địa phận của thôn 10, thôn 11, xã Quảng Cát. Đây cũng được coi là một khu vực linh thiêng siêu thoát cho những linh hồn xấu số, để những oan hồn không phải bơ vơ, dân gian còn gọi là một khu Nghĩa Thiện, h­ướng con ng­ười đến cái tâm, cái thiện.

Khu Nghĩa Trũng đ­ược quy hoạch theo hai phần: phía Tây đường 4A là 700m2, có 4 mốc làm giới, mồ mả quy định thành từng hàng. Đối diện với nghĩa địa là phần đền miếu thờ cúng, nằm ở phía Đông rộng chừng 500m2, có t­ường rào bao quanh và cổng ra vào. Phần chính là nơi cúng tế gồm 3 đàn xây bằng gạch, cuốn tam sơn. Đàn giữa (chính đàn), đàn hội đồng tế liệt vị chúng sinh cô hồn. Các đàn còn lại xây nhỏ hơn, nằm cách đều 4 góc ở đàn chính, kích th­ước mỗi đàn chiều dài 2m; chiều rộng 1,5m, có bức đại tự câu đối:

“Hiền ngu, quý tiện, giai thiện cổ.

H­ương hoả đ­ường đàm tự ­ước niên”

Nghĩa là:

    Khôn dại, sang hèn, đều phải chết.

          Nhà đàn thờ cúng mãi không thôi.

Như vậy chùa Yên Cát - Khu Nghĩa Trũng cũng như­ bao di tích khác đ­ược nhà nước xếp hạng. Đó là cái gốc để chúng ta l­ưu giữ và phát huy về mặt giá trị văn hóa tinh thần, giáo dục truyền thống, bản sắc dân tộc cho con cháu mai sau.

 

 

 

ĐỀN THỜ AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỴ CHÂU

(Xã Quảng Châu)

 

Đền thờ An Dương Vương thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu. Làng Bình Hòa nằm ở vị trí địa lý thuận lợi về giao thông thủy bộ, có Quốc lộ 47 chạy qua nối giữa thành phố Thanh Hóa với thị du lịch Sầm Sơn, cùng với con sông Đơ, một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lạch Trào chạy qua trước làng về phía Nam, dãy núi Trường Lệ nên thơ án ngữ mặt tiền như bức bình phong.

Theo sử sách xưa, làng Bình Hòa thuộc xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Làng Bình Hòa xưa mới thành lập làng gọi là làng Trạp, sau đổi tên là làng Điều Hòa. Các cụ trong làng tham gia nghĩa quân đánh trận Ba Đình ở huyện Nga Sơn, sợ giặc pháp trả thù đổi tên từ làng Điều Hòa sang làng Bình Hòa.

Ngày nay Bình Hòa chia làm 4 làng: Châu Bình, Châu An, Châu Thành, Châu Chính.

Trong lịch sử Việt Nam, vào nửa sau thế kỷ thứ III (TCN), với sự suy yếu của triều đại Hùng Vương, Thục Phán - một thủ lĩnh người Âu Việt ở miền núi đã thay thế triều đại Hùng Vương lập nên nước Âu lạc. Ông dời kinh đô Văn Lang từ miền Lâm Thao - Bạch Hạc - Vĩnh Phúc xuống miền Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội, lấy Quốc hiệu Âu Lạc. An Dương Vương ở ngôi 50 năm (từ 257- 208 TCN) thọ 72 tuổi. Việc An Dương Vương dời kinh đô từ miền núi xuống miền đồng bằng là một biểu hiện của sự phát triển lớn mạnh của dân tộc ta. Hai thành phần dân tộc Lạc Việt và Âu Lạc được hợp nhất. Hai lãnh thổ của người Lạc Việt và Âu Việt, miền xuôi và miền núi được thống nhất thành nước Âu Lạc. Sự thống nhất đó làm cho nước Âu Lạc lớn mạnh lên. Nước Âu Lạc ra đời là sự kế tục và phát triển một bước cao hơn nhà nước Văn Lang. Trên cơ sở đó ý thức dân tộc được nâng cao lên một bước, dưới triều đại An Dương Vương, sử sách có ghi chép đầy đủ về việc xây dựng thành Cổ Loa.

Vào năm 207 (TCN), Triệu Đà đã nhiều lần phát động một cuộc xâm lược hòng thôn tính nước Âu Lạc, nhưng toàn bộ những mũi tiến công của Triệu Đà đến núi Tiên Du (Tiên Sơn - Bắc Ninh) và đến Vũ Ninh (Quế - Bắc Ninh ) đều bị bẻ gãy.

Triệu Đà biết rằng không thể thắng được Âu Lạc về quân sự nên xin giảng hòa với An Dương Vương và sai con trai là Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương, xưng thần mà thờ. An Dương Vương gả con gái là Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Trong những năm ở rể, Trọng Thủy đã dò xét tình hình ở Âu Lạc, học phép chế nỏ và phá nỏ của người Âu Lạc rồi về nước báo cho Triệu Đà. Lần này Triệu Đà đã thôn tính được nước Âu Lạc. Vua An Dương Vương thua trận phải nhảy xuống biển tự vẫn (bờ biển phía Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An). Từ đây, đất nước ta chìm đắm trong đêm trường nô lệ hàng ngàn năm Bắc thuộc.

Theo truyền thuyết, sau khi An Dương Vương chém Mỵ Châu và nhảy xuống biển tự vẫn có đánh rơi một chiếc đai vàng vào cánh đồng trước đền bây giờ. Dân làng đặt tên cho cánh đồng đó là Đài Vường láy lại là Đai Vàng. Để tưởng nhớ đến công lao dựng nước của An Dương Vương, làng Bình Hòa đã lập đền thờ An Dương Vương và Công chúa Mỵ Châu. Thời gian xây dựng ngôi đền không được xác định.

Các triều đại phong kiến sau này đều phong tên thụy của An Dương Vương là Nam Hải Đại Vương thượng đẳng thần (tái gia phong thượng thượng đẳng tôn thần). Sắc phong thời Lê và thời Nguyễn ở đền An Dương Vương đều ca ngợi là huyền thông, tĩnh an, quảng lợi, quang ý, hồng cáp, dực bảo trung hưng Nam hải Thượng đẳng thần.

Trong sách Thanh Hóa Chư thần lục bản VHV 1290, biên soạn năm Thành Thái thứ 15(1893) ghi Nam Hải Tôn thần, thôn Bình Hòa, huyện Quảng Xương thờ (sách đã dẫn trang 64). Hơn nữa các sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn đều ghi là đền quốc tế có nghĩa là theo những nguyên tắc của nhà nước.

Theo các cụ cao niên trong làng kể lại rằng: Hằng năm vào ngày 1-3 âm lịch, quan đầu tỉnh về đền An Dương Vương làm lễ (làm chủ tế). Hiện nay còn lưu giữ được 16/31 đạo sắc, trong đó đời Lê có 10 đạo (từ đời Lê Chân Tông (1643-1649) cho đến Lê Hiển Tông (1740-1786). Đời nhà Nguyễn có 5 đạo sắc (từ vua Tự Đức (1847-1883) đến vua Khải Định (1916-1925). Khải Định năm thứ 9 (1924), tháng 7 ngày 29 còn ban sắc phong cho thôn Bình Hòa, xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa thờ cúng Nam Hải thượng đẳng thần theo lệ hàng năm.

Ở một vị trí thuận tiện về giao thông, đền Nam Hải Đại Vương là nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ đầy sức quyến rũ lòng người, đặc biệt lại có quy mô khá lớn bao gồm: cửa nghinh môn cấu trúc theo kiểu chồng diêm 3 tầng, soi mình xuống dòng sông Đơ đầy vơi theo thủy triều lên xuống. Bước qua nghinh môn và bái đường (sân) vào đến nhà tiền đường 5 gian. Đi qua tiền đường là nhà trung điện 3 gian song song với tiền đường theo hình chữ Nhị, khoảng giữa trung điện và chính tẩm là sân hậu nối liền với chính tẩm theo kiểu chữ Đinh là ba gian nhà hậu cung nơi đặt long ngai bài vị của thần Nam Hải. Tất cả 3 cung với những chạm khắc long, ly, quy, phượng lộng lẫy, tinh xảo được sơn son thếp vàng óng ánh.

Phía bên phải của nhà chữ Đinh (tính từ ngoài đi vào đền) cách khoảng 10m là đền thờ của công chúa Mỵ Châu (con gái vua An Dương Vương) với truyền thuyết về câu chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy.

Phía bên trái đền Nam Hải (tính theo phía ngoài đi vào đền) còn có một giải vũ 5 gian của các ban văn võ họp. Bao quanh khu đền là tường rào bốn phía, mỗi phía đều mở một cửa gọi là cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc và cửa Nam là nghinh môn, sau đền thờ là vườn cây um tùm, sầm uất với địa thế tự nhiên như đã nêu ở trên. Cùng quy mô cấu trúc của khu đền, có lẽ người đời xưa đã dụng ý mô phỏng theo cách bố cục của thành Cổ Loa (Hà Nội) mà khi xưa An Dương Vương đã cho xây dựng ở kinh đô Phong Khê. Đó cũng là một nét độc đáo về bố cục quy mô cấu trúc của đền An Dương Vương ở thôn Bình Hòa, xã Quảng Châu.

Đền thờ An Dương Vương không chỉ là nơi thờ An Dương Vương mà còn là địa điểm trú ẩn, hội họp, tập kết của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và các đơn vị quân đội. Trải qua các thời kỳ, quy mô cấu trúc của đền thờ được các cụ ngày xưa ca ngợi:

Đà có đặng vui phen thái hội

Lại thêm tươi sắc vẻ tài hoa

Nga nguy miếu phật trong vùng nhất

Thấm cho dân phúc Tĩnh Gia

Sau này, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngôi đền đó không còn nữa. Năm 1993, cấp ủy, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã thống nhất việc xây dựng lại đền thờ.

Tháng 5 năm 1993, bắt đầu khởi công xây dựng 1 chính tẩm và hoàn thành vào tháng 7 năm 1993. Cũng năm này, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 129, ngày 20 tháng 6 năm 1993 công nhận đền thờ An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Từ năm 1994-1996, tiếp tục xây dựng trung điện tiền đường, cửa nghinh môn, đền Mỵ Châu, nhà thánh mẫu, đắp 1 con đường từ Quốc lộ 47 vào đền thờ. Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã ký Quyết định số 1460, ngày 26 tháng 9 năm 1997 công nhận đền thờ An Dưong Vương và công chúa Mỵ Châu là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.

Trước đây, tại đền thờ An Dương Vương các lễ hội: hàng năm được tổ chức hết sức quy mô, thành kính với các hình thức.

- Đánh cờ tướng

- Giáo cờ, lượm quân cờ

- Rước kiệu: 2 năm rước từ nghè ra đình tế rồi rước về. 1 năm rước hội gồm 4 thôn lớn: Bình Hòa, Yên Trạch, Thọ Đài, Văn Phú gọi là bản xã (xã Bình Yên). Những năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu là rước hội.

Phần hội ngày xưa của các xóm nhỏ làng Bình Hòa thật nhộn nhịp. Vào dịp tết có xóm chơi mãi đến tháng Giêng, như xóm Bái Thượng: tổ chức trồng đu cho nhân dân chơi xuân. Xóm Bái Đáy: tổ chức cờ tướng đánh vật, hát ghẹo. Xóm Hoa Lư: xóm dưới tổ chức đánh vật, hát ghẹo, xóm chùa: vật, đánh cờ...

Ngày nay lễ hội tổ chức vào ngày 29 và ngày 30 tháng giêng.

Ban quản lý kết hợp các trò vui chơi truyền thống gắn kết với hiện đại, gồm chọi gà, leo cầu , tổ chức vật, bắn cung tên, hát đồng ca, hát đơn ca, ngâm thơ, múa, rước kiệu một vòng quanh làng với số lượng người tham gia khoảng 400 - 500 người rồi về đền thờ tổ chức tế.

Có thể nói, Đền thờ An Dương Vương có dấu ấn lịch sử để chúng ta tìm hiểu về cội nguồn của đất nước, dân tộc với nhiều tục lệ có giá trị, góp phần giáo dục truyền thống quê hương cho thế hệ ngày nay và cả mai sau. Đền còn là khu danh lam thắng cảnh phục vụ cho du khách gần xa qua lại thăm viếng.

 

 

MỘ - NHÀ BIA - NƠI THỜ LÃNH PHIÊN

(VŨ ĐÌNH PHIÊN)

(Xã Quảng Châu)

 

Ngày 1 tháng 9 năm 1958, thực dân Pháp nổ súng tại Đà Nẵng, công khai phát động chiến tranh xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn đã ký hai hòa ước ngày 25 tháng 8 năm 1883 và ngày 6 tháng 6 năm 1884, thực chất đây là những hòa ước thừa nhận sự đô hộ lâu dài của thực dân Pháp trên đất nước ta. Việt Nam trở thành một xứ thuộc địa nửa phong kiến của thực dân Pháp. Trong nội bộ triều đình, phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu đã tấn công thực dân Pháp ngày 5 tháng 7 năm 1885. Nhưng do tương quan lực lượng và sự chuẩn bị chưa đầy đủ, cuộc phản công đã thất bại, kinh thành Huế rơi vào tay giặc. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi rút ra phía Bắc để tính toán một cuộc kháng chiến lâu dài. Ngày 13 tháng 7 năm 1885, tại vùng rừng núi ở miền tây Bình - Trị - Thiên, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân đứng dậy chống Pháp. Ngày 19 tháng 9 năm 1885, vua Hàm Nghi lại ban chiếu Cần Vương lần thứ 2 để phát động phong trào chống Pháp mạnh mẽ hơn nữa.

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, các văn thân, sĩ phu yêu nước và nhân dân cả nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng đã nhất tề đứng lên, quyết tâm kháng chiến chống quân xâm lược.

Có thể nói, so với cả nước, phong trào Cần Vương chống Pháp của Thanh Hóa là sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục nhất. Ở vùng đông bắc Quảng Xương, cuộc nổi dậy chống Pháp do Lãnh Phiên lãnh đạo cũng gây được tiếng vang rất lớn.

Lãnh Phiên sinh vào tháng Chạp năm Ất Dậu (1826) tại làng Xuân Phương (tức làng Lan), xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Tên thật của ông là Vũ Đình Phiên, tên huý là Phúc Ngoạn. Cha của Vũ Đình Phiên là Vũ Đình Trực, một người rất có khí phách và uy tín trong vùng.

Lãnh Phiên có vóc dáng cao to, mặt vuông chữ điền, là con nhà gia thế nên ông sớm được đi học, ông học rất thông minh. Khi lớn, ông được học võ nghệ nên càng có khí phách hơn người.

Do có chí khí và uy tín, Lãnh Phiên đã được bổ làm Trương tuần, Lý trưởng, đến Thanh tra hàng tổng và phó tổng Cung Thượng. Dân trong vùng gọi ông là phó tổng Phiên.

Nhận được chiếu Cần Vương chống Pháp, Lãnh Phiên đã nhanh chóng liên kết, liên lạc với nhiều văn thân, sĩ phu, những người yêu nước ở quanh vùng như: ông Cát, ông Chiệc, ông Chùy, ông Soạn, ông Thú ở làng Lan (làng Xuân Phương), ông Tĩnh, ông Lý Xang, ông Cai Đề, ông Cai Trắm, ông Đễ ở làng Đệu (làng Kiều Thôn), ông Cử Mãu, ông Đoàn Xuân ở làng Nghệ (làng Trường Thọ, xã Quảng Ninh), ông Bạ Chính ở Trại Mãu (trước đây thuộc đất Hoằng Hóa, nay là làng Đa Lộc, xã Quảng Châu), ông Lê Viêm, ông Đường Hiêng ở làng Hòa Chúng (nay là xã Quảng Thọ)... Đó chính là những hạt nhân cho sự phát triển của nghĩa quân của Lãnh Phiên.

Tháng Mười năm Ất Dậu (11/1885), các lãnh tự văn thân của triều đình và Thanh Hóa đã phong cho ông chức Lãnh Binh. Đồng sự của ông được giữ chức Tham sự kiêm Thủ Bạ, Lê Viêm giữ chức đốc vận quân lương, Đinh Thiên Hiên giữ chức Thương Biện, trở thành những trợ thủ đắc lực của ông.

Sau khi nhận chức và chịu sắc mệnh đánh Tây của triều đình kháng chiến, đứng đầu là vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, Lãnh Phiên đã chiêu mộ hào kiệt, quân sĩ. Thanh thế nghĩa quân ngày càng mạnh, tráng đinh tụ nghĩa ngày một đông, các hào phú cũng tự nguyện đóng góp lương thực, thực phẩm nuôi quân sĩ.

Quân số nghĩa quân tăng nhanh, Lãnh Phiên quyết định di chuyển đại bản doanh từ làng Lan sang làng Kiều (phía tây làng Xuân Phương bây giờ) để dễ bề hoạt động. Nghĩa quân đóng chốt ở làng Trù Lễ, Hòa Chúng, Kiều Thôn gần cánh đồng Cồn Tiên, Mỏ Giang ở phía Nam lưu vực sông Mã, liên lạc với các lãnh tụ nghĩa quân ở các huyện lỵ quanh vùng, mở rộng địa bàn, quân sĩ lên tới hàng ngàn người.

Rằm tháng Giêng năm Bính Tuất (19/12/1886), tại ngã ba làng Lan (làng Kiều), nghĩa quân Lãnh Phiên đã tế cờ, tế súng và khai đao, với sự có mặt đông đủ các văn thân, sĩ phu, nhân dân trong và ngoài tổng, quyết thề không đội trời chung với quân xâm lược. Nghĩa quân chiến đấu nhiều trận, lập nhiều chiến công vang dội. Ngày 9 tháng 6 năm 1886, quân Lãnh Phiên đến Ba Đình (Nga Sơn) chi viện cho căn cứ chống Pháp ở Ba Đình của Đinh Công Tráng và Phạm Bành. Cuộc chiến ở Ba Đình vô cùng quyết liệt, nghĩa quân Lãnh Phiên chiến đấu anh dũng, kiên cường, làm cho quân Pháp thất điên bát đảo. Giặc Pháp luôn lùng sục để tiêu diệt nghĩa quân, đi đến đâu chúng cũng đốt nhà, cướp của, giết người để trả thù nghĩa quân.

Thực dân Pháp tập trung lực lượng tấn công căn cứ Ba Đình - mối lo của chúng lúc bấy giờ. Ba Đình thất thủ đêm 21 tháng 1 năm 1887, tức ngày 28 tháng Chạp năm Bính Tuất, nghĩa quân rút về địa phương và căn cứ Mã Cao.

Ngày 24 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1887), do có kẻ chỉ điểm, giặc đã bắt được Lãnh Phiên tại làng Trường Lệ, xã Quảng Vinh khi ông gặp Đề Đớn để bàn việc quân binh. Bắt được Lãnh Phiên, gặc Pháp đã tìm mọi cách dụ dỗ ông đầu hàng, nhưng không được. Biết không thể khuất phục được người anh hùng, thực dân Pháp đã chém ông vào sáng ngày 22 tháng 2 năm Đinh Hợi (tức ngày 3/4/1887) ở thành Thọ Hạc, khi đó ông 61 tuổi. Con cháu, thuộc hạ đưa thi hài ông về an táng tại gò đất Nghĩa Trũng (nay thuộc xã Quảng Cát).

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, 4 làng Xuân Phương, Kiều Thôn, Yên Trạch, Bình Hòa ghép lại thành một xã, gọi là xã Lãnh Phiên. Năm 1947, 3 xã Lê Viêm, Lãnh Phiên, Bạch Đằng hợp lại thành xã Quảng Châu. Chợ cầu Trõi, làng Hòa Chúng, xã Quảng Thọ được đổi tên là chợ Lãnh Phiên cho đến tận ngày nay, cầu Trõi còn được gọi là cầu Lãnh Phiên.

Hiện nay, mộ, nhà bia và nơi thờ ông đã trở thành di tích lưu niệm một danh nhân anh hùng của làng xóm, quê hương, đất nước.

Mộ Lãnh Phiên:

Như trên đã nói, sau khi Lãnh Phiên bị giặc hành quyết ở thành Thanh Hóa, con cháu cùng thuộc hạ đã đưa thi hài ông về an táng tại gò đất Nghĩa Trũng. Sau này con cháu đã xây mộ ông bằng gạch.

Nhà bia:

Tại nhà người cháu nội của Lãnh Phiên là ông Vũ Đình Kỳ vẫn giữ được tấm bia đá "Vũ từ đường bi ký" rộng 50cm, dày 10cm, cao 90cm, chữ còn sắc nét, được soạn khắc năm 1904. Vì sợ thực dân Pháp trả thù, văn bia không ghi chép rõ về lai lịch của Lãnh Phiên, nhưng lời lẽ trong bia rất ý tứ nhắc nhở con cháu tu nhân tích đức, phụng thờ cha mẹ thì mới là người nhân nghĩa và giữ nghĩa anh em.

Nơi thờ:

Nơi thờ Lãnh Phiên Là một nhà gỗ 5 gian, gian giữa là nơi bày hương án và các đồ thờ, có câu đối từ xưa do cụ Đồ San để lại:

"Quốc thế dĩ trầm quân thượng phấn

Tướng đầu vị đoạn tạc do binh"

Dịch nghĩa:

Nước nhà đã đắm thân còn dân

Đầu tướng chưa lìa giặc vẫn kinh.

Lãnh Phiên đã để lại tấm gương sáng về lòng yêu quê hương, tổ quốc, đồng bào, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Vì vậy, ngày 20 tháng 2 năm 2001, Giám đốc sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa đã ký Quyết định số 25 /QĐ-VHTT công nhận "Nơi thờ - Mộ - Nhà bia Lĩnh Phiên (Vũ Đình Phiên)" là di tích lịch sử văn hóa

Đương thời có "Bài ca Lãnh Phiên" như sau:

"Nhà nước mới mở mang khu vực

Liền quận thành mọi việc đều hay

Năm thôn chung một cõi này

Xưa kia khen ngợi, ngày nay tiếng đồn

Bình Hòa với Kiều Thôn, Yên Trạch

Cùng hai làng Đa Lộc, Xuân Phương.

Ở trong vùng quận Quảng Xương

Lãnh Phiên danh giá vẻ vang nước nhà

Vốn dòng dõi ông cha họ Vũ,

Bẩm sinh ra hào phú tài hoa

Khi phó tổng, khi thanh tra

Lúc vào trại chủ, khi ra trương tuần

Vừa gặp hội văn thân khởi nghĩa

Ông cùng người sức khoẻ chí cao

Tinh thông tam lược lục thao

Văn ôn võ luyện bên nào cũng nên

Thuyền quân Pháp vượt qua Bến Thủy

Thử qua xem tình thế thế nào?

Ông đem sản vật ra chào

Trứng gà một quả, chuối tiêu một buồng

Ông trông chúng ra phường dị loại

Quyết trở về hăng hái dấy binh

Sơn phòng chánh sứ nổi danh

Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân

Trong hổ tướng xoay vần đoán chế

Ngoài hùng binh bệ vệ sắc đôi

Tính năm khoảng độ một, hai

Sấm ran cõi đất, tiếng oai vùng trời

Chợ cầu Trõi là nơi chiến địa

Lệnh nghiêm quân chia rẽ ba bên

Hậu quân vừa mới tiến lên

Súng thần giật lại, ông liền lui binh

Nghe Ba Đình có Đinh Công Tráng

Với Phạm Bành hai tướng đổng nhung

Kéo cờ chiêu phủ tiên phong

Luyện binh, tuyển tướng đùng đùng kéo ra

Năm Ất Dậu mùng ba tháng Chạp

Lệnh nghiêm quân thúc giáp vào thành

Hàng hàng đứng trước đại doanh

Bài ngà ban thưởng lĩnh binh tức thì

Giúp mấy trận đánh Tây lừng lẫy

Từng quan năm, quan bảy thua lăn

Đồn binh vừa được ba tuần,

Lại thêm ngày tết lương ăn thiếu mà

Đêm 28 kéo ra từng lớp

Mỗi xứ đoàn đi khắp mọi nơi

Trở về ăn tết xong xuôi

Lại toan chuẩn bị những hồi về sau

Tới Đề Đỡn cùng nhau bàn bạc

Tây bỗng đâu đã kéo trước cờ

Đương khi bất ý hững hờ

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn

Đề vác lưới thoát liền ra biển

Còn mình ông cô thế biết sao

Tử sinh phó mặc thiên tào

Vẫn còn lưu tiếng anh hào đến nay

Trong khu vực ở đây là thế

Còn ngoài ra sẽ kể dần dần

Cộng hòa chính thể muôn xuân

Mọi phần xếp đặt, mọi phần vẻ vang".

(Tác giả: Cụ Đồ San, tên thật là Đinh Viết Tiến (1875 - 1955).

Noi gương các bậc tiền nhân, nhân dân xã Quảng Châu với truyền thống yêu quê hương, đất nước, không ngừng phấn đấu xây dựng quê hương đạt nhiều thành tích về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Do đó, xã Quảng Châu luôn được Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý rất đáng tự hào.

 

 

 

NGHÈ LÀNG KIỀU

(Xã Quảng Châu)

 

Theo tài liệu chữ Hán của ngài Đinh Huy Nghiêm thì nghè Làng Kiều được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng, đời vua Lê Cung Hoàng (1526), tôn ngài Khương TNha - một nhà chính trị - quân sự lỗi lạc giúp Văn vương diệt vua Trụ (nhà Thương), lập nhà Chu - một thời đại huy hoàng của Trung Hoa thời xưa. Trước Cách mạng tháng Tám 8 năm 1945, làng Kiều thuộc xã Tứ Thôn gồm các làng: Yên Cát, Làng Thông và Hòa Chúngcác làng lớn của Tổng Cung Thượng thuộc vùng Đông Bắc huyện Quảng Xương.

Ngày nay, dọc Quốc lộ 47 từ Thành phố Thanh Hóa xuống Sầm Sơn, tới km 13 rẽ trái tới trụ sở UBND Quảng Châu, rẽ trái khoảng 300 m là đến. Nghè nằm trên khu đất cồn rộng phía Tây Nam Làng Kiều.

Vào thời Lê, Nho giáo được bảo vệ làm kỷ cương cho đời sống hội, được chính quyền phong kiến đề cao, trªn c¬ së tiếp thu tư tưởng nho giáo, người dân làng Kiều xưa đồng thời ra sức gìn giữ, phát huy những giá trị tinh thần đẹp đẽ của dân tộc, được hình thành bồi đắp trong cuộc đấu tranh liên tục để xây dựng và bảo vệ làng. Nhiều thế hệ dân làng giữ vững ý chí, tình cảm, ra sức duy trì và bảo vệ phong cách độc đáo của nền văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân bản địa bằng cách vừa tiếp nhận tư tưởng Nho giáo, khai thác các yếu tố tích cực giúp ích cho sự phát triển của địa phương. Đó là các yếu tố trong học vấn, lập danh, lập công và lập ngôn. Vì vậy đã tôn vinh một học giả nhà triết học của Trung Quốc làm thần hoàng làng.

Theo sách Thanh Hóa chư thần lục thì Khương Tử Nha tước Thái hiệu công Khương Thượng là nhà triết học trí giả uyên bác của Trung Quốc cổ đại để lại 6 bộ sách có giá trị trí tuệ rất cao trong nhiều lĩnh vực là: võ thư, long thư, hổ thư, mã thư, quyển thư là di sản to lớn không những của văn minh Trung Hoa mà cũng góp phần quan trọng vào kho tàng văn minh Phương Đông và nhân loại.

Phương thức ứng xử văn hóa công bằng đối với nguồn tri thức chung của nhân loại được chọn lọc để phục vụ yêu cầu của nhân dân ta. Bởi vậy, từ thời Lê đến thời Nguyễn, trong làng đã chú trọng học tập, khuyến học, khuyến tài tạo ra lớp người đỗ đạt thành danh làm quan có đóng góp cho đất nước, quê hương như Đinh Công, tên tự là Bằng Nghị làm quan đời vua Lê Cung Hoàng, Đinh công, tên tự là Bằng Đức đỗ Cống Sinh, Đinh Phúc Cảo, Đinh Du Sơn đỗ Cống Sinh trở thành những thầy thuốc, thầy giáo giỏi nổi tiếng một thời.

Dưới triều vua Tự Đức có ngài Đinh Huy Nghiêm đỗ tú tài năm Canh Tuất (1850) có công xây dựng nghè và các công trình văn hóa nên khi mất được làng rước vong về nghè tôn thờ và trình vua sắc phong, trong đó có câu "Hoàng triều Canh Tuất niên tú tài Đinh Huy Nghiêm Chi quan từ hạ" mà trong các bài văn tế hàng năm mãi mãi còn ghi.

Ngài Đinh Thân Huy đậu Tam Trường và trở thành thương biện của nghĩa quân Lĩnh Phiên cần vương chống Pháp (1884 - 1886) được Tiến sỹ Nguyễn Thượng Hiền tặng câu đối ca ngợi:

    “Đinh Tín Đệu thôn nhân kiệt xuất

          Lan hương Đình Vũ tướng tài danh

Dịch:

    Họ Đinh làng Đệu có người xuất chúng

    Họ Vũ Làng Lan có tướng tài nổi tiếng

Phong trào khuyến học còn được lưu truyền kể cả thời chuyển sang học chữ Quốc ngữ.

Cụ thể như trong làng xưa quy định: khi có dịp tế lễ, hội làng người có bằng cấp cao nhất ngồi sập ngụ gian giữa tiền đường, người có học vị cử nhân ngồi với thọ lão 90, tú tài ngồi với thọ lão 80; Đíp lôm ngồi với thọ lão 70.

Cßn những người có bằng sơ học, yếu lược trở lên được ngồi bên gian phía trái của tiền đường gọi là "Tả hàng" và được miễn phu phen tạp dịch. Từ việc chọn lọc thần hoàng trí tuệ đề cao học vấn, xây dựng những tư tưởng tiến bộ, độc đáo của làng xóm, tôn vinh sự học, lấy thành đạt trong khoa cử làm chuẩn mực như câu châm ngôn của địa phương:

    “Chu Khương Tôn Tử nghè ghi tại

    Sử Sỹ phong lưu chiếm đắc nhàn.”

Tạm dịch:

    Khương Tử Nha Tô Đông Pha Nghè thờ phụng

    Nho sinh mới về thành người đỗ đạt.

Như vậy, từ cổ xưa ng­ười dân tôn thờ vị thần trí tuệ, tôn trọng đạo đức học, tôn trọng lễ giáo, người dân làng Kiều không những chỉ tôn thờ các thần tượng lý tưởng mà còn chọn lọc trong số công dân của mình hễ ai tài năng đức độ, vì nước, vì dân, biết yêu quý và có công tạo dựng làng xóm thì đều được tôn thờ và tiếp tục được trình lên nhà vua phong sắc như Đinh Công Nhân Tín Lang Dực bảo Trung hưng Linh phù Tôn thần". Do Làng Kiều có vị trí quan trọng, đầu mối giao thông thủy, bộ ngày xưa " các kênh đào nhà Lê và đường thiên lý Bắc - Nam đi qua" nên thường là nơi giao tranh giữa các thế lực như Trịnh - Mạc, và đặc biệt là cuộc hành quân của Tây Sơn (năm 1789). Do sự giành giật quyền lợi của các phe phái phong kiến nên làng bị tàn phá nặng nề làm cho làng xóm hoang tàn, dân cư phiêu tán. Những tên cổ còn lại như: Cánh đồng Bãi Giặc, khu vườn Đốt là dấu vết ghi lại những sự tàn phá biến động trong lịch sử làng xưa.

Trước tình cảnh hoang tàn, là người chức dịch giữ tập địa tô của làng, và là nho sĩ có uy tín, ngài Đinh Công Nhân Tín đã chiêu dân, lập ấp, tổ chức sản xuất, xây dựng, hồi sinh làng Kiều thành một làng lớn trù phú, dân cư đông đúc, tôn vinh sự học, phục hồi những công trình văn hóa bị tàn phá như: Nghè, Chùa, Văn Chỉ vµ ®Õn năm 1892 làng Kiều trở thành một làng lớn của tổng Cung Thượng. Ngài sinh năm 1749, mất năm 1818 được thờ phụng trong Nghè làng. Bài tế còn ghi:

Cường nghi thống duệ

Chiêu tập thành dân

Tập chỉ ninh dân

Tráng tiết biểu trung

Hiển liệt đoan túc

Dực Bảo Trung Hưng

Thượng Đẳng tôn thần

Công lao kiến tạo làng xã của ngài Đinh Công Nhân Tín rất phù hợp với chính sách Triều Nguyễn. Khi thống nhất non sông, ổn định hội định quốc kế dân sinh nhà Nguyễn đã ghi nhận công lao của Ngài từ đời vua Minh Mệnh, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định đều ban sắc phong thần Đại Vương, tước Dực Bảo Trung Hưng; hiện nay còn giữ được một đạo sắc của vua Khải Định.

Trên thì Ngài được vua phong, dưới thì dân các dòng họ tôn kính như lời ca:

Mười tám dòng họ làng ta,

Tôn ngài là vị cha già kính yêu.

Hồi sinh mảnh đất làng Kiều,

Lúa khoai tươi tốt lại nhiều cá tôm.

Mở trường dạy chữ Hán Nôm,

Dạy cho con cháu biết hơn lẽ đời.

Tài cao đức trọng hơn người,

Đức dày công lớn đời đời sáng trong.

Ơn ngài lượng cả khoan dung,

Ngày nay con cháu nối dòng vinh quang.

Biết bao thế hệ trong làng,

Đã làm rạng rỡ vẻ vang làng Kiều.

Tiếng thơm của Ngài đã để lại cho con cháu sau này mãi mãi noi theo. Dân thờ phụng Ngài là theo lẽ lương tri và tình cảm của con người, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Có cuộc sống bình yên hạnh phúc hôm nay là do Ngài có tài cao đức trọng, chiêu dân hồi sinh làng xóm trong tình thế hoang tàn, phiêu tán, Ngài là thần làng thế tổ họ Đinh nhưng cũng là tổ bên ngoại của nhiều dòng họ khác trong làng. Việc dân làng thờ phụng cũng là các lớp hậu duệ nội ngoại thờ phụng tổ tiên của chính mình.

Ngày nay, linh vị Ngài đặt ngôi hai tại nghè, và khu mộ chí tại cồn Chào Mào phía Đông Nam, Nghè đã được trùng tu nâng cấp, nhân dân trong làng lui tới dâng hương.

Kế tục Ngài là lớp con cháu nối nghiệp với các vị tiên liệt như: Đinh Nhân Khải, Đinh Huy Nghiêm, Đinh Thân Huy… đã vận động tổ chức tốt, nên bước sang thế kỷ 19, làng Kiều lại trở thành một làng lớn, dân cư đông đúc, làm ăn thịnh đạt, có luật lệ nghiêm minh và xây dựng nhiều công trình văn hóa quy mô lớn, có giá trị nghệ thuật cao, được sánh vai với các làng lớn trong tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương.

Trong các vị tiên liệt nối nghiệp tiêu biểu là ngài Đinh Huy Nghiêm, cháu đích tôn của Ngài là đệ nhị Thánh sinh năm 1892, đậu tú tài năm 1850 là người có đức độ và uy tín nên đã tổ chức cho dân đắp đê ngăn mặn, mở rộng diện tích trồng lúa, nuôi cá, nuôi tôm, mở rộng đường làng rợp bóng dừa xanh.

Đặc biệt năm (1850) xây dựng khu nghè làng quy mô bề thế nhất xã Cung Thượng xưa. Đến nay, những người cao tuổi còn nhớ rõ kiến trúc gỗ bề thế theo kiểu chồng rường xà thủ với những bước phù điêu hoa văn chạm trổ nhiều điển tích giá trị. Từ khu tiền đường to rộng đến khu trung đường, hậu cung bố trí theo hình chữ Đinh, trang hoàng choáng ngợp những hoành phi, câu đối và các đồ thờ quý giá chói lọi vàng son. Đặc biệt là nghi môn ở phía trước nghè chính hướng Tây Nam có kiểu dáng uy nghi hoành tráng và có giá trị nghệ thuật cao.

Rất tiếc, từ năm 1955 đến năm 1962 do nhiều nguyên nhân Nghè bị tháo gỡ chỉ còn phần nền móng trên nền đất cũ. Năm 1997, đất nước đổi mới, dân làng tưởng nhớ tổ tiên, với phương thức xã hội hóa, nh©n d©n đã tu bổ lại khu di tích trên nền móng cũ. Nghè dựng lại đầy đủ các khu vực, kiến trúc gồm 3 phần: Tiền Đường, Trung đường và Hậu cung. Chỗ thiêng nhất của Nghè là hậu cung nơi đặt 3 ngai thờ là nơi tôn nghiêm trang trọng nhất của Nghè, là những cổ ngai có bài vị thần chủ đặt trong đó.

Dòng chữ viết trên bài vị Thần chủ là những dòng về chức tước vị thần được ghi trong sắc phong như: Thái công Khương Thượng Thượng Thượng đẳng tôn thần linh vị. Đinh công nhân tín đại vương linh phù tôn thần vị. Hoàng triều Canh Tuất niên tú tài khoa Đinh Huy Nghiêm chi quan từ hạ linh vị.

Phần trung đường là thần linh được hiện ra thành tượng, là những vị thần có lai lịch: đó là 3 pho tượng của Khương Tử Nha, Đinh Công Nhân Tín, Đinh Huy Nghiêm, những Thần Hoàng làng với câu đối:

              “Hoàng triều Đại Việt phong tam thánh

              Cố lý Tiên Trang hợp nhất từ”.

Tạm dịch:

              Các vua nước Việt phong ba thánh

              Làng cổ Tiên Trang thờ một Nghè.

Tạo sự thiêng liêng cao quý trong Nghè và thiết kế bàn thờ thần, từ ngoài vào có bộ bát bảo, tám vật quý, quạt hình quả vả, bút, ống sáo, lẵng hoa, thanh kiếm, phất trần, quân cờ là những thứ gắn liền với quan niệm nho học phong kiến. Lẵng hoa thể hiện sự bình an hạnh phúc, ống hoa, quả quạt biểu hiện hào hoa phong lưu của sỹ tử, bàn sách, bút lông biểu hiện học thức, phất trần biểu hiện đạo đức….Trong thiết kế bàn thờ thần là sự uy nghi thể hiện triết lý nho học phương §ông, đó là ¢m Dương ngũ hành, những yếu tố tạo nên muôn vật, Bức đại tự nằm chính giữa Nghè với 3 chữ: "Thể - Phả - Hinh" (Đời đời tiếng thơm) đây là một ý tưởng tự hào, chuẩn mực.

4 câu đối được bố trí trang trọng 4 góc phía trước là các câu:

Câu 1:

          “Lập đức, lập công dich dịch năng thanh bất hủ

    Vị thần, vị tổ du du linh tích trường tồn”.

Tạm dịch:

          Tạo đức lập công vời vợi tiếng thơm không ngớt

          Là thần là tổ rõ ràng linh tích còn dài

Câu 2:

          “Thành dân công đức lưu phương viễn

          Dịch thế cơ cưu hữu cốc di”

Tạm dịch:

          Nên công đức tiếng thơm để mãi

    Nối đời nền nếp thóc gạo để về sau

Di tích lịch sử văn hóa nghè làng Kiều là nơi chứng kiến lịch sử, lưu giữ và phát triển văn hóa, nơi có thành hoàng biểu tượng thiêng liêng nhất của làng. Mỗi dịp lễ hội của làng Kiều là một dịp chuyển giao văn hóa, sáng tạo văn nghệ. Lễ hội làng là sợi chỉ hồng liên kết tâm linh, kết thành sức mạnh to lớn, bền vững trong dựng làng giữ nước, là biểu tượng sức mạnh đoàn kết gắn bó mọi thành viên cộng đồng.

Hàng năm, làng Kiều tổ chức lễ Kỳ Phúc vào các ngày 14,15 tháng Giêng ¢m lịch. Thời xưa, mỗi khi hội làng, các làng: Yên Cát, Thông Thôn, Hòa Chúng cùng tổ chức rước hội giao lưu.

Trong ngày hội làng thường tổ chức rước quân cờ, thi ẩm thực (cỗ chay, cỗ mặn) và trò chơi dân gian như ®ấu vật. Với ý thức đúng đắn và tình cảm sâu sắc, lấy văn hóa cổ truyền làm nền tảng, nhân dân làng Kiều bằng phương thức xã hội hóa đã tu bổ lại di tích (1997) trên nền móng cũ, đến nay đã có cơ ngơi khang trang, đẹp đẽ. Được toàn dân hưởng ứng tích cực nên các hình thức lễ hội hàng năm được tổ chức lại mỗi năm thêm khởi sắc, đáp ứng nguyện vọng của bà con xa gần.

Nghè làng Kiều là di tích lịch sử văn hóa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm như: Long ngai, sắc phong, hoành phi, câu đối từ các thế kỷ tr­ước. Nghè làng tôn thờ những danh nhân, và những người có công dựng làng, giữ nước trong không gian thiêng liêng hoành tráng.

Các vị thần thiêng nhắc nhở về cội nguồn trong sự học tôn vinh kẻ sỹ và lễ hội là dịp giải toả những khúc mắc trong cộng đồng làng xóm, là sợi dây kết nối các dòng họ trong làng thêm gắn bó, thân thương, củng cố quan hệ trong đời sống thường nhật. Những biểu tượng tâm linh, mối quan hệ cộng đồng thiêng liêng ấy là cơ sở, là động lực, tạo niềm tin để người dân làng Kiều trụ vững trong mọi gian lao, thử thách, tiến lên theo trào lưu phát triển của đất nước.

Nằm trên con đường thiên lý Bắc - Nam xưa, cùng với dấu tích của các sông đào thời Lê - Nghè làng Kiều là chứng tích cho những diễn biến lịch sử quan trọng như cuộc chiến Lê - Mạc; Quang Trung hành quân ra Bắc, phong trào Văn thân và ngay cả trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ vừa qua. Vì vậy nó có giá trị mở ra một hướng nghiên cứu về văn hóa lịch sử của một vùng quê giàu truyền thống.

 

 

NGHÈ SÀY

(Xã Quảng Châu)

 

Nghè Sày thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương. Đối chiếu với lịch sử, vùng đất làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thời thuộc Hán thuộc huyện Cư Phong, thời Tam quốc Lưỡng Tấn Nam Bắc triều thuộc huyện Trạm Ngô, đến thời Tùy thuộc huyện Long An, thời Đường thuộc huyện Sùng Bình. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý vẫn giữ như cũ, đến thời Trần, Hồ, Quảng Châu thuộc huyện Kết Duyệt và huyện Duyên Giác thuộc Cửu Chân. Đầu thời Lê sơ, làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thuộc huyện Vĩnh Xương. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi thành huyện Quảng Xương, phủ Thanh Ninh (sau đổi thành phủ Tĩnh Gia). Suốt triều Lê Trung hưng, đầu triều Nguyễn, làng Bình Hòa, xã Quảng Châu thuộc tổng Cung Thượng (Giặc Thượng). Đời vua Đồng Khánh, làng Bình Hòa thuộc thôn Điều Hòa, xã Điều An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Đời vua Thành Thái (1889 - 1907), do các cụ trong làng tham gia kháng chiến chống Pháp đánh trận Ba Đình, sợ giặc Pháp trả thù nên mới đổi từ thôn Điều Hòa thành Bình Hòa.

Bình Hòa nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi, giáp liền với cửa Hới và dãy núi Trường Lệ, nơi có thị xã du lịch Sầm Sơn nổi tiếng. Hơn thế nữa, đây là vùng đất lịch sử gắn liền với nhiều huyền thoại như: An Dương Vương và Mị Châu, Quan Nghè Quản Di Đài, mang đậm tính nhân văn và giáo dục cao.

Nghè Sày nơi thờ ông Quản Di Đài thời Lê Trung hưng; truyền thuyết trong làng còn kể lại: Vào khoảng thời gian (1676-1789) thời Lê Trung hưng, có một người từ nơi khác đến, đóng vai bần hàn bỏ quê hương đi kiếm sống. Ông xin làng một miếng đất ngụ cư, cuối cùng làng cũng thương tình cho ông một khu đất bỏ hoang toàn cát ở phía Bắc. May mắn cho ông, miếng đất làng cho lại được huyệt trúng vào đầu Khủng long cho nên phát phúc. Ông bỏ tiền xây dựng cơ nền, mua sắm đồ dùng bát đĩa, chum vại… rồi trở về quê hương đưa vợ con đến ở.

Trước nhà ông có một đường đi xóm Bác Đáy (nay là thôn Châu Chính) xuống các cánh đồng, có một đoạn dài 200m rộng 1m, dân đắp bờ lên hai bên mặt đường phòng trời mưa không cho nước chảy vào ruộng. Trâu bò qua lại bị lầy quá bụng, kéo lê kéo lết mới lên được, do vậy nhân dân gọi là Ngõ Sày (hãy còn gọi là Ngõ Nghẽn). Xung quanh khu đất ông ở cũng được gọi cái tên là Cồn Mày, thân đất dưới gọi là Mày Chua.

Được một thời gian dân làng mới biết tên ông là Quản Di Đài, nguồn gốc từ Hải Dương vào. Ông là người kinh sử giỏi giang nhưng gặp phải cảnh học tài thi phận, khoa cử lận đận, nhiều năm mà không đỗ. Để tránh tiếng đua ganh ở quê cũ, ông dứt áo ra đi, tìm nơi đất tốt ngụ cư thực hiện chí học của mình. Ông có một người chị là Quản Thị Hiền là người rất xinh đẹp được tuyển vào làm cung tần hầu vua. Sau này người chị cũng trốn bỏ về cùng ông lấy cụ Lương Hữu Cẩn.

Vào khóa thi cuối thời hậu Lê ông thi đỗ Tiến sĩ(1), theo điều lệ quy định của triều đình, ông vinh qui bái tổ, cờ rong trống mở quan lại quê hương, nhân dân nơi cư trú phải tổ chức rước ông về làng. Trong làng một số vị quan lại chức sắc do sĩ diện với quê hương nên tỏ ý đố kỵ ghen ghét, coi thường ông chỉ là một nho sinh nghèo vừa phiêu bạt đến đây mà đã sớm được xứng bảng đề danh hơn các bậc quan lại trước đây trong làng. Do vậy họ tỏ ý coi thường, khinh rẻ và bày ra cái trò đem ghế nhổ mạ ra làm kiệu khênh, lọng bằng nón sổ vành, cờ bằng khố cho làng đi trước. Thấy cảnh trái ngang, dân làng miệt thị mình, ông quá uất hận nhưng vẫn cố nén chịu, đi bộ về nhà chia sẻ nổi niềm cùng vợ con. Về đến nhà ông lập đàn tế cúng, tấu lên Thiên Tào, Bắc Đẩu, cửu trùng về nổi oan khiên của mình. Sau đó vì uất hận không chịu nổi ông liền tự vẫn, thật là bi thương.

Sau cái chết của ông, như có sự linh nghiệm đến quỉ thần trời đất, trong làng Bình Hòa liên tục xảy ra nhiều tình trạng chết người hại của, chẳng ai học hành thi cử đỗ đạt. Tai họa này đến tai họa khác liên tục giáng xuống khiến cho cư dân điêu đứng. Nhiều người trong làng phải dời bỏ quê hương tìm nơi mưu sinh cuộc sống. Hối hận với những việc làm sai trái với quan nghè Quản Di Đài, dân làng đã lập đàn, mời thầy phù thủy cao tay nhiều lần về cúng tế nhưng vẫn không linh ứng. Cuối cùng dân làng họp bàn, những ngày đại lễ và những ngày lễ khác được làm cổ mặn, phối thỉnh ông trên bàn sập hội đồng. Đặc biệt mâm cổ của ông thứ gì cũng phải đủ 12 đĩa, bát hoặc 12 khay trầu tượng trưng cho 12 cửa họ trong làng sám hối đối với ông, mong cầu ông xá bỏ uất hờn giúp đỡ cho dân làng.

Sau khi ông qua đời, con cháu ông không biết đi đến chỗ nào? kể cả bà chị gái ông. Phần mộ ông được đặt trên khu đất làng đã cho ông, khu đất này so với ruộng Mày Chua cao tới hơn 2m, những năm mưa to gió lớn dân ra lấy được bát đĩa, nồi đồng, mâm đồng…dân gian cho rằng đó là của cải đồ dùng của gia đình ông Quản Di Đài, sau khi ông mất, con cháu bỏ đi nơi khác nên chôn cất giấu của, khu đất ấy tới nay nhân dân vẫn gọi là khu đất ông Nghè Sày.

Như vậy, về nhân vật Quản Di Đài được thờ ở Nghè Sày nó chỉ là tương truyền, thực chất nó là một truyền thuyết đầy tính nhân văn nhằm giáo dục con người. Việc ông Quản Di Đài thi đỗ Tiến sĩ khoa nào cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép. Chỉ thấy hiện nay một số các tài liệu thành văn hiện trong nghè nơi thờ ông có đề cập đến việc ông là Tiến sĩ được gọi là ông Nghè. Nội dung câu đối như sau:

    “Tiến sĩ tôn ông thiên cổ tại.

    Quan nghè tưởng niệm quốc gia phong”.

Nghĩa là:

    Quí ông tôn quí đổ Tiến sĩ nghìn năm vẫn ở chốn này.

    Tưởng niệm về quan nghè được đất nước phong tặng.                 Ngày nay trên đất ông Nghè Sày, nơi ngôi nhà ông ở trước đây vẫn còn một chính tẩm cũ, được một gia đình họ Lương vì thương cảm số phận của ông cho nên lập một ngôi miếu với qui mô khang trang hơn nhiều so với trước, kể cả hệ thống đường vào cũng được rải nhựa để thuận tiện cho việc lưu thông qua lại. Đôi câu đối treo trong Nghè minh chứng rõ ràng hơn:

          “Quản môn xuất thế gia đình cựu.

    Quan Nghè hiển ứng miếu vũ tân”.

Nghĩa là.

    Nơi xuất thế gia đình họ Quản cũ.

    Miếu đền quan Nghè được tôn tạo mới.        

Toàn bộ khu di tích quay về hướng Tây Bắc, trước mặt là ao tạo nên yếu tố minh đường, xa xa là cánh đồng lúa bao la bát ngát. Toàn bộ khuôn viên di tích đều được xây tường bao kiên cố. Muốn vào di tích phải qua cổng Nghinh môn, cổng mới được tôn tạo theo kiểu hai tầng mái gồm ba cửa ra vào. Các con giống được đắp gắn ở phía trên các tàu mái cùng các đường cong, nét lượn đã tạo nên giá trị thẩm mỹ cho di tích và kiến trúc cho công trình. Qua cổng Nghinh môn là sân đền lát gạch, tiếp đến là nhà tiền đường. Nhà tiền đường được làm theo kết cấu hình chữ Đinh (J) bao gồm một Tiền đường và một hậu cung. Hậu cung là nơi bài trí Tượng và linh vị quan Nghè Quản Di Đài. Nhà tiền đường lợp ngói, trên đỉnh nóc có đắp lưỡng long chầu nhật. Bên trái nhà tiền đường là nhà Mẫu, nhà khách...

Như vậy, mặc dù di tích Nghè Sày mới được tôn tạo lại, nhưng đây là một di tích có công trình kiến trúc bề thế khang trang, có sự kết hợp hài hòa giữa xưa và nay. Một điều đáng chú ý là về nhân vật thờ tại di tích, với những diễn biến nhân vật, phản ánh giá trị nhân văn sâu sắc về giáo dục văn hóa truyền thống cho thế hệ con cháu sau này. Nếu như theo quy hoạch của tỉnh, Thành phố Thanh Hóa sẽ kéo dài về phía Đông nối liền với Thị xã du lịch Sầm Sơn, thì Nghè Sày sẽ trở thành một điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách.

 

 


 

 

ĐỀN XUÂN PHƯƠNG

(Xã Quảng Châu)

 

Làng Xuân Phương, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương vốn có lịch sử văn hóa lâu đời. Cư dân tụ cư trong làng tập trung chủ yếu là dòng họ Nguyễn, họ Phạm và họ Vũ; những dòng họ này về đây đã khá lâu, tạo nên một cộng đồng làng mạc hôm nay. Quá trình hình thành làng mạc đã từng bước mở mang đất đai ra phía biển, với các ngành nghề đắp đập nuôi trồng thủy sản, cấy trồng cây lúa nước, cây hoa màu là những sinh hoạt chính để tồn tại và phát triển.

Tụ cư lập làng nơi cuối sông, giáp biển lại được chuyển từ các vùng đồng đất của thượng nguồn sông Mã đổ xuống, càng tạo thêm các yếu tố thuận lợi cho việc du nhập, hội tụ các tôn giáo. Chính vì thế từ xa xưa làng Xuân Phương đã có đầy đủ sắc thái, diện mạo của một làng quê đậm đà bản sắc. Làng Xuân Phương có chùa thờ Phật, có đình Trung thờ Thánh, đền (Nghè) thờ Thành hoàng và có đình của 4 phe (?): Đông - Tây - Khang - Thịnh.

Đền Xuân Phương tại làng Xuân Phương, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, thờ một nhân vật lịch sử đó là Nguyễn Phục. Ông quê ở xã Đoàn Tùng, huyện Gia Lộc (nay là huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương), thi đỗ Hoàng giáp, niên hiệu Thái Hòa (1442 - 1453) đời vua Lê Nhân Tông; làm quan đến chức Hàn Lâm Viện, nắm chức Phi vận Tướng quân, kiêm chức sư phụ dạy học cho các thân vương hoàng tử trong Triều Lê. Tháng 4 năm Quang Thuận thứ 8 (1467), ông được bổ nhiệm chức Tham chính sứ, xứ Thanh Hóa (được quyền định đoạt mọi việc ở xứ Thanh Hóa) khi vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, ông được giao làm Đốc vận quân lương, ông tập kết nghĩa quân, lương thực vũ khí, tại một đầm nước, sú vẹt (xa xưa còn thông thương ra Lạch Hới. Sau này là cánh đồng lúa sát làng Xuân Phương, ông chọn ngày thanh minh (mồng 3 tháng 3) làm lễ khao quân và xuất trận. Tiến quân từ đồng đất Xuân Phương tới cửa Hới vào Phương Nam, đoàn thuyền của ông gặp phong ba bão táp, sóng biển dữ dội, trời đất mịt mùng không đi được. Mọi người bàn tính liều đi nhưng ông đã ra lệnh “hoãn lại nhất nhật”, mọi người bình yên, lương thực vũ khí được bảo toàn. Nhưng do chậm trễ thời gian, quân thiếu lương ăn, nhà vua nghe theo cung nhân xúi giục, khép tội bắt trói ông và ghép ông vào tội chết. Ông chết ngày 16 tháng 4 năm Tân Mão tại cửa biển Tư Dung (tức cửa Tư Hiền) tỉnh Thừa Thiên Huế. Sách thần tích Việt Nam ghi: Sau khi chiến thắng giặc Chiêm Thành trở về ngang cửa Thần Phù, gặp sóng to, gió lớn, biển động dữ dội khiến cho đoàn thuyền của nhà vua không thể qua đ­ược. Đêm đó nhà vua thao thức, tai nghe gió gào, sóng dậy, trằn trọc không sao ngủ đ­ược. Vua sực nhớ đoàn thuyền l­ương trễ hạn cũng là do sóng lớn gây ra. Trong lòng hối hận th­ương quan đốc l­ương quan bị thác oan... trong lúc mơ màng, vua thấy ông nhung trang chỉnh tề đứng trước gi­ường ngự tâu rằng: "Kẻ hạ thần cảm ơn tri ngộ của bệ hạ nên dẫu thác linh hồn vẫn theo ra chiến trận, nay nhờ hồng phúc quốc gia, bệ hạ dẹp xong Chiêm hầu, hạ thần lại xin hộ giá khải hoàn". Vua Lê chợt tỉnh, vừng đông đã hửng sáng, trông ra biển lặng sóng êm. Đại quân v­ượt biển trở về yên ổn. Vua Lê Thánh Tông truy phong quan đốc l­ương Nguyễn Phục tước "Đại v­ương biển Đông Hải".

Để t­ưởng nhớ công lao đức trạch của ông, nhân dân các vùng ven biển dâng tấu xin triều đình sắc cho phụng thờ, tôn làm Thành Hoàng của làng để giúp đỡ nhân dân. Nhà vua đồng ý và ban phong cùng lúc cho 12 cửa biển suốt khu vực bắc Miền Trung trở vào đến Quảng Bình để nhân dân đ­ược phụng thờ.

Đến triều đại nhà Nguyễn sau này tiếp tục sắc phong thần Nguyễn Phục.

- Ngày 1 tháng 2 đời vua Minh Mệnh thứ 5(1824), sắc phong ban thêm mỹ tự là Huệ Trạch.

Ngày 3 tháng 4 đời vua Thiêu Trị thứ 4 (1843), sắc phong ban thêm mỹ tự là Huệ Trạch Hoàng Hợp

Ngày 29 tháng 4 đời vua Thiệu Trị thứ 4 (1843), sắc phong ban thêm mỹ tự là Huệ Trạch Hoàng Hợp Quảng nhuận.

Ngày 3 tháng 12 đời vua Tự Đức thứ 3 (1850), sắc phong ban thêm mỹ tự là Huệ Trạch Hoàng Hợp Quảng Nhuận Trác Vĩ thượng đẳng thần.

Ngày 1 tháng 4 đời vua Đồng Khánh thứ 2 (1887), sắc phong gia ban thêm dực bảo trung hưng thượng đẳng thần...

Quả thật vậy, Nguyễn Phục là một danh tướng dưới thời Lê, ông có nhiều công lao to lớn đánh giặc, bảo vệ và mở rộng đất phương nam của Tổ Quốc, ông là người trung hiếu, tiết nghĩa đã giúp cho vương triều Lê xây dựng và củng cố một nhà nước phong kiến Đại Việt vững bền. Trong số các nhân vật lịch sử của đất nước ta vào nửa thế kỷ XV, Nguyễn Phục nổi lên như một nhân vật đặc biệt với sự đóng góp hiệu quả cho đất nước, cho dân tộc để giữ gìn, bảo vệ và mở rộng bờ cõi non sông, cũng như trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật, lịch sử, địa lý, khoa cử, giáo dục, những đóng góp đó đã tạo thành những giá trị mang đặc trưng thời đại (thời đại Hồng Đức) để lại ảnh hưởng tốt đẹp cho nhiều thế kỷ mai sau. Nguyễn Phục là một nhà nho uyên bác (nhà khoa bảng Việt Nam) lại vừa là nhà cách tân, nhà giáo dục, là một vị tướng lo việc quân lương. Đối với quê hương Thanh Hóa, ông còn có nhiều kỷ niệm về một vùng mà ông đã từng được bổ nhiệm trông coi. Nguyễn Phục là người thông minh, đĩnh ngộ hơn người, có nhiều công lao đóng góp dưới hai triều Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông.

Đền thờ phúc thần Nguyễn Phục được nhân dân làng Xuân Phương xây dựng từ những năm đầu thế kỷ XVI, có quy mô gồm 5 gian nhà tiền đường, 3 gian nhà trung đường, 3 gian nhà chính tẩm theo hình chữ Tam (≡), hướng Bắc nhìn núi Lạch Trường.

Thứ tự vào Đền ta bước qua cửa nghinh môn 2 tầng xây bằng gạch đỏ, 4 mặt đắp nổi hình các con nạ, con rồng xen lẫn những hàng chim sáo bên cạnh ngũ phụng đề thi, lưu ly chúc tửu, sân lát gạch cẩm rộng 250m2, nhìn sang hai bên đông, tây là 2 dãy hành lang 12 gian giành cho du khách và dân làng hội hè sinh hoạt, trước nhà tiền đường hai bên đông, tây là hai cột nanh cao sừng sững được đắp nổi 2 câu đối:

      Câu 1.

“Lân giao hữu đạo thanh xuân hiếu

Môn quán vô tư bạch nhật nhàn”

      Câu 2.

“Tượng Lĩnh tây hồi chung thọ mạch

  Mã giang bác dẫn chấn phong ba”

Bước vào tiền đường, trung đường, chính tẩm ta không khỏi tấm tắc với các trang thiết bị lung linh lộng lẫy được sơn son thếp vàng. Vật liệu xây dựng đền Xuân Phương xưa kia bằng gỗ tứ thiết, ngói cẩm trướng, đá vôi núi Nhồi, hồ vữa cát vôi trộn mật.

Tuy nhiên, những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền Xuân Phương đã bị tháo dỡ, những hoạt động lễ hội truyền thống lệ làng chỉ còn đọng lại trong trí nhớ của các cụ cao niên.

Ngày 25 tháng 9 năm 1996, được Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 217 công nhận đền Xuân Phương, làng Xuân Phương, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Việc tôn tạo để phát huy tác dụng, đáp ứng nguyện vọng tín ngưỡng của nhân dân, được nhân dân trong và ngoài vùng phát tâm công đức. Được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí. Từ tháng 1 năm 1997 - 1 năm 1999, UBND xã Quảng Châu đã chỉ đạo và tổ chức tiến hành theo quy trình từng bước tiến hành xây dựng lại đền tại nền đất cũ, theo thiết kế đã được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa phê duyệt có tổng hiện tích quy hoạch là 9715m2, về xây dựng, kiến trúc hoàn toàn theo kiểu dáng đền xưa, hình chữ tam (≡) gồm 3 gian nhà chính tẩm, 3 gian nhà trung đường, 5 gian nhà tiền đường, 2 nhà giải vũ 10 gian, 2 cột nanh trước tiền đường và sân lát gạch 250 m2 với trang thiết bị nội thất tương đối phong phú: ngai thờ thánh, hương án, bàn thờ bộ hạ, kiệu bát cống, hoành phi câu đối có niên đại từ thời Lê - Nguyễn còn lưu giữ được, đồng thời được bổ sung quân cờ, chấp kích, rìu đồng phủ việt, cờ, lộng, trướng, cây đăng, hạc đồng, lư hương bằng đồng và gỗ được sơn son thếp vàng lung linh lộng lẫy, bảo đảm đầy đủ phục vụ nhạc lễ các ngày tế đại lễ của làng như những năm trước đây.

Tuy vậy so với đền làng xưa, đền Xuân Phương mới tôn tạo lại còn khiêm nhường cả về quy mô, chất liệu, nhưng mọi hoạt động lễ hội lại có phần sâu rộng phong phú hơn.

Kế thừa truyền thống lệ làng xa xưa, hàng năm tại đền làng có các dịp lễ hội sau đây:

1. Tế giao thừa và tế xuân vào ngày mùng 1, 2, 3 tết Nguyên Đán. Thường lệ hàng năm cứ làng nổi trống tế giao thừa là nhân dân trong làng, đua nhau ra đền dâng hương hái lộc.

2. Tế Cầu phúc vào ngày mùng một, mồng 2 tháng hai Âm lịch. Chiều ngày 30 già trẻ, gái trai tụ họp về đền tổ chức rồi cờ dong trống mở, khiêng kiệu, múa lân, vác quân cờ, các cụ ông, cụ bà, các tầng lớp nhân dân quần áo, khăn mũ đủ màu sắc rực rỡ đi theo nhịp trống, điệu lân. Rước Thần Đông Hải Đại Vương quanh làng, quanh xã, 0 giờ ngày mùng 1 làng tế phụng nghinh (rước thần ra tiền đường) để sáng mùng 1 tế Cầu phúc. Ngày mùng 1, mùng 2 thường có 4 đến 5 bản hội tế thần, còn lại 15- 20 bản hội dâng lễ, dâng hương, các cá nhân, hộ gia đình cũng lần lượt dâng hương cầu nguyện trong những ngày làng lễ hội. Cũng tại sân đền, tế Cầu phúc làng có tổ chức văn nghệ, đánh cờ, đánh bóng, chọi gà, kéo co (thi và có thưởng).

3. Tế Thanh minh vào ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Các bậc tiền nhân trong làng truyền lại: ngài Nguyễn Phục chọn ngày thanh minh mùng 3 tháng 3 làm lễ khao quân, rồi xuất trận tại sông bến huyện, cánh đồng lúa trước làng hiện nay xưa kia là đầm sú vẹt ăn liền ra cửa Hới. Lễ vật tế Thanh minh để khao quân xuất trận có lợn nguyên sinh, cá thu nướng, trứng vịt sống, gạo nếp, gạo tẻ (tất cả được đựng trong sọt tre đan) để sẳn sàng tế thần xuất kích.

4. Tế ngày linh hóa vào ngày 16 tháng 4 Âm lịch (ngày giỗ), ngày hóa tiên, phong thần (linh đạo hiển ứng ).

5. Tế Trung thu cầu hòa (lễ vật có xôi gà và trà hoa quả ngọt) vào ngày mùng 8 tháng 8, cầu cho mưa thuận gió hòa, sâu bệnh ít sinh sôi, mùa màng bội thu, dân tình yên ổn.

Ngoài 5 ngày tế đại lễ còn có ngày lễ (Bụt sinh mùng 8 tháng 4), tết Đoan Ngọ ngày 5 tháng 5 Âm lịch.

6. Tế Đảo vũ Cầu mưa: Nếu năm nào hạn hán kéo dài, chọn ngày lành tháng tốt, phụng nghinh thần ra tiền đường, rước kiệu quanh làng về đến tế lộ thiên.

7. Lễ sóc vọng mỗi tháng 2 lần vào sáng mùng 1 và 15.

Trong tâm thức của nhân dân vùng biển nói chung, nhân dân làng Xuân Phưong, xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương nói riêng, họ luôn ý thức về biển cả như một hiện tượng thần biển mà Đông Hải Đại Vương là con người chỉ thần phục.Vì vậy tôn thờ Đông Hải Đại Vương để họ được che chở cưu mang đem lại cuộc sống bình yên cho họ.

Ngưỡng mộ về biển chinh phục biển còn được họ gửi gắm bằng hình tượng phúc thần Nguyễn Phục. Đông Hải Đại Vương vốn là một nhân vật lịch sử, ông đã trở thành một con người của huyền thoại, sống động trong đời sống tâm linh của người ven sông, ven biển xứ Thanh, trong đó có làng Xuân Phương.


 

 

DI TÍCH LỊCH SỬ, CÁCH MẠNG

ĐỊA ĐIỂM CÂY ĐA LÀNG SI

(Xã Quảng Chính)

 

Cách Thành phố Thanh Hóa khoảng chừng 20km, qua cầu sông Lý, trên đường Quốc lộ 1A trên đường từ Bắc vào Nam, quý khách hãy dừng chân tới thăm địa điểm Cây Đa làng Si, một di tích lịch sử cách mạng. Nơi đây vào ngày quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1931, trên ngọn Cây đa làng Si (nay là làng Ngọc Diêm) xã Quảng Chính huyện Quảng Xương, lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên bầu trời đánh dấu một chặng đường phát triển của phong trào cách mạng huyện Quảng Xương.

Vùng đất Quảng Chính ngày nay, từ xa xưa là lưu vực miền hạ lưu sông Yên phía bên tả ngạn, là điểm tận cùng của các dải cồn cát ven biển phía Đông kéo dài từ cửa Hới đến cửa Hàn (cửa sông Ghép); về phía Tây là các dãy cồn cao thuộc phía Tây huyện; ở giữa là vùng đất thấp trồng lúa nước, rau màu. Lưu vực miền hạ lưu này là bãi triều vùng nước lợ thích hợp cho việc làm muối và nuôi trồng hải sản.

Theo Bản xã linh thần tích trí (sự tích linh thần làng ta) còn lưu giữ lại cho biết: “vào khoảng đời vua Trần Anh Tông (1293 - 1314), tại làng trang Ngọc Giáp thuộc tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, Trấn Thanh Hóa có 3 người là Trịnh Đình Nguyên, Lê Viết Phú, Hoàng Công Thục gia tư hào phú cùng với cư dân trong vùng tự lập ra một khu ấp ở phía bắc Ngọc Giáp”. Vùng đất này xưa còn hoang vu, lau lách, cây cối mọc um tùm, bãi lầy đất thụt, đất nước chua mặn… Thế rồi đất lành chim đậu, từng đoàn người già, trẻ, gái, trai gồng gánh cái gia tài nhỏ bé của mình cùng với những dụng cụ sản xuất thụ sơ theo các triền sông, dọc bờ biển từ nhiều nơi đổ về miền đất mới để tìm cách mưu sinh, lập nghiệp.

Vào thời Hậu Lê khoảng thế kỷ XV, ấp Ngọc Giáp là một vùng rộng, sau này là các làng Đa, Si, Phú, Bồ. Đầu thế kỉ XIX đến đời Đồng Khánh là xã Ngọc Giáp, tổng Thủ Hộ; Sau năm 1945 là xã Hoa Lư. Năm 1947 xã Hoa Lư sát nhập với xã Ký Con và xã Lý Thường Kiệt thành xã Quảng Chính (lớn) gồm 5 xã: Quảng Chính, Quảng Trung, Quảng Khê, Quảng Thạch, Quảng Nham.

Xã Quảng Chính nay gồm 6 làng:

- Làng Đại Đồng thành lập từ cuối thế kỉ XVI mang tên Đại Lộc;

- Làng Chính Đa thành lập đầu thế kỉ XV với tên gọi Giáp Đa;

- Làng Thanh Xuân thành lập vào thế kỉ thứ XVI;

- Làng Phú Thiện thành lập vào thế kỉ thứ XVI;

- Làng Ngọc Diêm I và Ngọc Diêm II, tương truyền ông Nguyễn Hữu Trình đến lập nghiệp đầu tiên vào năm 1488 lấy tên là làng Si sau đổi thành làng Ngọc Diêm.

Làng Ngọc Diêm phía Bắc giáp sông Lý, phía Nam giáp làng Đa, làng Xuân, phía Tây giáp làng Phú, phía Đông giáp làng Bồ và dòng sông Ghép uốn quanh. Làng có tổng diện tích đất tự nhiên là 827.000m2, trong đó đất nông nhiệp là 696.340m2, đất làm muối là 40.500m2. Diêm dân làng Si mỗi năm sản xuất ra hàng nghìn tấn muối cung cấp cho mọi nơi trong huyện, trong tỉnh. Và tên làng Ngọc Diêm có từ đây. Những hạt muối làm ra được quý như ngọc. Cũng như bao làng quê khác, làng Ngọc Diêm cũng có cây đa, giếng nước, sân đình, có một quần thể di tích phong phú, có cồn chùa phía Bắc cách chân núi Eo chừng 100m thuộc đất làng Bồ, trên cồn có chùa nên gọi là cồn Chùa. Nghè Thánh Cả ở phía Đông tôn thờ tứ vị Thánh Nương. Làng có 4 giếng nước xây bằng đá, có đình làng, điếm canh, có Văn chỉ, cạnh Nghè trước có chợ họp gọi là chợ Bìa, chợ Đồn, sau này là chợ Ghép. Ở địa điểm giáp thôn Đa ngay cạnh đường cái cũ có một nhà bia nên đoạn đường này xưa được gọi là đường cái Bia, chỉ cách đò Ghép xưa khoảng 300m. Vào đầu thế kỉ thứ XX, thực dân Pháp thống trị có lập đồn Đoan nắm quyền về muối và rượu, ngoài ra còn để khống chế phong trào cách mạng ở phía Nam huyện. Tại nơi đây, làng Ngọc Diêm trên một đoạn đường cái chính xứ, con đường thiên lý Bắc - Nam (hiện nay là Quốc lộ 1A) tại km 20 Thanh Hóa - Ghép có cây đa cổ thụ, có quán Bà Thì, xưa khách bộ hành hay dừng chân nghỉ lại (theo Hoàng Triều nhất thống địa dư chí).

 Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập ngày 29 tháng 7 năm 1930 ở Yên Trường - Thọ Xuân. Tháng 1 năm 1931, hội nghị Đảng bộ tỉnh họp tại làng Hồ Thượng - Tĩnh Gia đã bầu được Ban chấp hành lâm thời Tỉnh Đảng bộ, đồng chí Ngô Đức Mậu được bầu làm Bí thư, đồng chí Phạm Tiến Năng (Quảng Xương) được bầu vào Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ, phụ trách khu vực huyện Quảng Xương. Vùng phía Nam huyện Quảng Xương lúc này, là nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh và lại ở gần đồn Đoan. Từ năm 1927 đến năm 1931, cũng tại vùng phía Nam huyện Quảng Xương, các hội Tương tế Ái hữu, hội Dệt, hội Hiếu - Hỉ, hội lợp nhà, hội bóng đá... được thành lập để tập hợp quần chúng và đã giác ngộ được một số bạn tâm huyết làm nòng cốt tuyên truyền vận động cách mạng. Thực hiện chỉ thị của Xứ ủy và chủ trương của Tỉnh Đảng bộ về công tác các hội quần chúng, treo cờ búa liềm, rải truyền đơn... Đồng chí Phạm Tiến Năng, Nguyễn Văn Giảng đã xúc tiến việc tuyên truyền vận động quần chúng, nắm lấy các tổ chức quần chúng, công khai hoạt động. Các đồng chí đã ra sức tuyên truyền, giác ngộ những thanh niên, học sinh tiến bộ lúc bấy giờ là Đới Xuân Lữ, Bùi Văn Hiệt ở Ngọc Giáp.

Nhân kỉ niệm ngày quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1931, đồng chí Phạm Tiến Năng giao nhiệm vụ cho đồng chí Đới Xuân Lữ cùng hai đồng chí khác đã treo được lá cờ đỏ búa liềm trên ngọn cây đa làng Si (nay là làng Ngọc Diêm). Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm ngạo nghễ tung bay trên ngọn cây đa làng Si, với truyền đơn rải trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa đã làm cho kẻ thù run sợ và như ngọn đuốc đêm trường soi sáng và đã cổ vũ nhân dân Quảng Xương hướng theo cách mạng. Sự kiện treo lá cờ Đảng tại cây đa làng Si có một ý nghĩa lịch sử quan trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng, có tầm quan trọng đối với phong trào cách mạng của toàn huyện, toàn tỉnh lúc bấy giờ và mang ý nghĩa quốc tế vô sản, hưởng ứng và ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Với sự kiện và ý nghĩa ấy, việc treo cờ đỏ búa liềm ngày 1 tháng 5 năm 1931 trên ngọn cây đa làng Si sẽ sống mãi với thời gian và trong lòng mỗi người dân quê hương. Cây đa làng Si là một trong hai địa điểm duy nhất của tỉnh Thanh Hóa, nơi đầu tiên treo cờ đỏ búa liềm. Ngày 30 tháng 8 năm 2007, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã ký Quyết định số 2620 /QĐ-UBND công nhận cây đa làng Si nơi treo lá cờ Đảng ngày 1 tháng 5 năm 1931 ở làng Ngọc Diêm xã Quảng Chính là một di tích Lịch sử cách mạng cấp Tỉnh. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, cây đa làng Si phải gánh chịu bao nhiêu lần bom đạn của kẻ thù; và cùng với năm tháng, thời gian, những trận bão lớn, cây đa trơ trụi chỉ còn lại gốc, hiện nay không còn nữa, nhưng hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên ngọn cây đa vẫn hiện rõ trong tâm tưởng lớp lớp các thế hệ con cháu đã và đang được sống hạnh phúc trên vùng đất lịch sử này.

Để hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên ngọn cây đa sống mãi cùng chúng ta, ngày 31 tháng 1 năm 2009 Thường trực Huyện ủy Quảng Xương cùng với Đảng ủy xã Quảng Chính, tổ chức chuyển một trong số 2 cây đa của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trồng lưu niệm tại cơ quan Huyện ủy về trồng tại khu di tích lịch sử cách mạng làng Ngọc Diêm xã Quảng Chính.

Ngày 16 tháng 11 năm 2010, thường trực Huyện ủy cùng với lãnh đạo xã Quảng Chính đã tổ chức khởi công công trình tưởng niệm sự kiện lịch sử cách mạng quan trọng này.


 

 

ĐÌNH MỸ LÂM

(Xã Quảng Đại)

 

Đình Mỹ Lâm thuộc làng Mỹ Lâm, xã Quảng Đại, huyện Quảng X­ương, Tỉnh Thanh Hóa, nằm cách Thành phố Thanh Hóa 15 km (Theo đ­ường chim bay) về phía Đông Nam.

Theo gia phả dòng họ Phạm Văn, năm (1681) đời vua Lê Hy Tông, ông tổ dòng họ Phạm Văn, tên tự là Huệ Giác là ng­ười gốc làng Vệ Giữa, xã Quang Tiền (Thuộc xã Quảng Đức ngày nay) làm quan trong triều, giữ chức Tri phủ Hoài Nhân (Hà Tây cũ), khi về h­ưu, ông đư­a vợ con xuống dựng nhà, sinh cơ lập nghiệp tại làng - nơi ông ở là dải đất Ma Hang, nhân dân còn gọi là Mả Hạng.

Cháu đời thứ tư của ông Phạm Văn là Phạm Văn Lặt, tên tự Trung Chất, là người có tư chất thông minh, học hành đỗ đạt, làm quan tại triều giữ chức Thiếu khanh. Ông là vị quan thanh liêm, chính trực, có nhiều công trạng với đất n­ước. Vợ ông tên hiệu Từ Mẫn đã bỏ tiền mua 23 mẫu điền thổ cùng con cháu của ông có ý định thành lập làng tại đây. Để được lập làng ông Phạm Văn Lặt đã phải cùng các con đội đơn vào triều xin đ­ược thành lập làng; Triều đình đã phái quan triều bảng nhãn Lê Quý Đôn trực tiếp về “đếm đinh, đạc điền kiến ốc” cho phép đ­ược lập làng và cải tên gọi thành làng Mỹ Lâm như ngày nay.

Sau khi ông mất, đ­ược vua Lê Hiển Tông ban sắc truy phong mỹ tự "Vĩnh an khuông quốc" và dân làng bầu hậu là Thành Hoàng, triều đình giao cho nhân dân xây dựng đình miếu để thờ tự.

Đình lúc mới xây gồm ba gian: Tiền đường, phía sau là một nhà Hậu cung hai gian, thiết kế theo hình chữ "Đinh", bằng tre nứa tạm bợ. Đồ tế khí trong đình còn đơn điệu nh­ưng dân làng vẫn hương khói th­ường xuyên. Việc cúng tế, thờ tự đ­ược theo lễ quốc khánh, phương pháp tế lễ phải tuân theo phép điển. Năm Bảo Đại thứ 4 (1929) đình lại đ­ược trùng tu tôn tạo lại với quy mô lớn mang kiểu dáng kiến trúc của thời Nguyễn và tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng, vượng khí, quay mặt h­ướng chính nam "Đại cát". Nằm ngay giữa trung tâm làng Mỹ Lâm, phía sau là ngã ba kênh, nơi hợp l­ưu của ba dòng n­ước lớn Tây - Đông; Bắc - Nam; Nam - Bắc để rồi cùng đổ ra sông Đồng Rào (xưa còn gọi là sông Vạn Lịch) nằm ở phía đông của ngôi đình.

 Ngôi Tiền đường 5 gian nằm ở phía tr­ước đ­ược làm bằng gỗ tứ thiết, hai hàng cột cái có đ­ường kính 0,45m. R­ường mái, hoành tải toàn bằng gỗ lim xẻ, mái lợp ngói mũi hài; đầu đốc uốn cong hình long đao, giữa nóc đắp hình "Lư­ỡng long chầu nhật". Gian chính giữa có một bức đại tự lớn, hai hàng cột giữa có đôi liễn đ­ược sơn son thếp vàng rực rỡ.

Ngôi Hậu cung phía sau cũng kết cấu toàn bằng gỗ lim và gỗ dổi xẻ thành phiến vuông. Ba mái đều lợp ngói mũi. Hai mái chính và một mái hiên trước đ­ược gắn liền với ngôi Tiền đường. Ba mặt nhà hậu cung đều xây t­ường bít đốc. Mặt trư­ớc ngăn cách với nhà Tiền đường bằng bộ cửa bức bàn chạm trỗ hoa chanh; "mắt cửa" tinh xảo. Đặc biệt phía trên bộ cửa là mảng phù điêu bằng gỗ quý (cao 2m, rộng gần 3m), mà ở phía trên cùng của bức phù điêu là "Lư­ỡng long chầu nhật”, tiếp đến là đặc tả "Ph­ượng hoàng vũ khúc”; trên nền sóng nước là những đoá hoa sen cũng đã đư­ợc cách điệu thành những ngọn lửa đèn dập dờn giữa cảnh "Cá chép hóa rồng v­ượt vũ môn". Đôi con nạ đ­ược mô phỏng theo hình thức "Tễu" nhe răng c­ười làm sáng bừng cả khung cảnh bức phù điêu vừa dân dã, vừa uy nghiêm tr­ước cửa hậu cung.

      Thời kỳ này, đồ khí tế đã khá phong phú: Long cung, ỷ, bài vị, giá gươm, 8 cây tàn lộng từ lớn đến nhỏ cùng với đôi "Quạt cò" được tết bằng lông chim quý mầu sắc lộng lẫy, ống đựng h­ương, đế đèn, nậm r­ượu lớn nhỏ phần lớn được tiện bằng gỗ h­ương. Nhiều đồ gốm sứ quý đ­ược vẽ trang trí hình rồng, ph­ượng, mô tả các tích cổ. Hai bên Tả - Hữu là dàn " Bát bộ binh khí" cùng với thẻ lệnh bài ngà càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm của chốn hậu cung. Đặc biệt, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn bộ Triều phục của quan Thiếu khanh như­: Mũ cánh chuồn, áo gấm, hia, hài và bộ đòn kiệu bát cống dài 8m phỏng theo hình rồng uốn khúc.

Đình Mỹ Lâm, hàng năm diễn ra 3 ngày lễ trọng: Mùng một tháng Giêng; Mười Tám tháng Năm và Mười Hai tháng Chạp. Tr­ước khi tế lễ, làng chồng kiệu và bài vị của các vị thần chủ trư­ớc sân đình để làm lễ mộc dục (tắm cho các pho t­ượng bằng n­ước thơm), sau đó rước linh vị Thần chủ đi quanh làng cùng với tàn, dù, lộng, theo sau tiếp đến là dàn bát âm, thanh la chiêng trống, tấu khúc "L­ưu thủy hành vân", sau cùng là toàn bộ già trẻ, gái trai trong làng ngoài xã nối thành một hàng dài theo sau lễ r­ước kiệu.

Nghi thức tiếp theo là phần dâng hư­ơng, tế bái theo nghi lễ đó quy định. Các lễ vật dâng lên đều đư­ợc kiểm tra cẩn trọng.

Sau phần tế lễ là phần hội. Tùy theo tiết thời xuân - hạ - thu - đông để tổ chức các trò vui nh­ư: Đánh đu; Vật giải, Kéo co, hoặc mời phường bội, rối hát về diễn x­ướng có khi kéo dài hàng ba, bốn ngày liền.

Ngoài những giá trị về văn hóa, lịch sử, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đình Mỹ Lâm là nơi ngày đêm dân quân, du kích tập luyện. Và đây cũng là nơi tập kết vũ khí, súng ống đạn d­ược, quân lương của bộ đội ta trư­ớc khi vào Nam chiến đấu; là nơi diễn ra các cuộc họp công khai (và cả bí mật) của Ủy ban kháng chiến, nơi tập trung đưa tiễn các đoàn dân công, các đợt thanh niên tòng quân lên đường ra tiền tuyến, cũng là nơi đặt các lớp bình dân học vụ của địa phương trong thập kỷ 30 đến 50 của thế kỷ XX; Đặc biệt hơn, đây còn chính là nơi thành lập tổ Đảng đầu tiên (Tiền thân của chi bộ và là Đảng bộ xã Quảng Đại ngày nay).

Trư­ớc kia, sân đình có cây vông cổ thụ cao khoảng 25m, gốc to khoảng bốn ng­ười ôm, tán rộng, chiếm gần cả một sào đất thư­ờng được sử dụng làm chòi canh gác và phát thanh, thông tin tin tức cho cả một vùng. Năm 1972, do yêu cầu về sự nghiệp giáo dục của địa phương, cây vông cổ thụ này đã đ­ược hạ xuống, ngôi tiền đ­ường cũng đã bị phá dỡ cùng với các đồ thờ quý cũng bị đập phá h­ư hỏng và mất mát gần hết. Đến năm 1980, bằng sự đóng góp tự nguyện của con cháu trong họ, trong làng, đình đã được khôi phục lại. Nhà Tiền đường đ­ược xây dựng lại bằng bê tông cốt thép, đồ khí tế đ­ược s­ưu tầm, mua sắm bổ sung mới phỏng theo quy cách cũ. Cũng năm 1980, khu miếu đá thờ cụ Tổ ở Ngã ba Kênh cũng đ­ược quy tập về trong khuôn viên, bên cạnh đình, tạo thành một quần thể di tích của cha ông. Năm 1981, con cháu trong họ lại đóng góp xây sửa khuôn viên, t­ường rào, cổng ngõ với số kinh phí gần 10 triệu đồng.

 Ngày 30 tháng 8 năm 2006, đình Mỹ Lâm đã đư­ợc nhà n­ước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 2382/QĐ-UBND. Và cuối năm 2009, đình lại được nhà n­ước hỗ trợ kinh phí để tu sửa, chống xuống cấp khu nhà Hậu cung với tổng số kinh phí lên đến hàng trăm triệu đồng.

Cùng với quá trình hình thành và phát triển quy hoạch du lịch Nam Sầm Sơn, Ban Quản lý di tích cùng với chính quyền địa ph­ương đang từng b­ước hoàn thiện ph­ương án tổ chức quản lí, khai thác hoạt động du lịch, lễ hội tại di tích nhằm phát huy những giá trị của nó trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trước mắt cũng như lâu dài.

 

 

 


 

 

ĐỀN THỜ ĐÔNG HẢI ĐẠI VƯ­ƠNG NGUYỄN PHỤC

(Xã Quảng Đại)

 

Đền thờ Đông Hải Đại Vư­ơng - Nguyễn Phục còn có tên gọi là Đền thờ quan Hoàng Giáp, hay Đền đức Thánh tôn thần. Ngôi đền được xây dựng trên khoảnh đất ven biển xã Quảng Đại, huyện Quảng X­ương, cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 15km về phía Đông Nam.

Sách “Thanh Hóa chư thần lục” biên soạn năm Thành Thái thứ 15 (1903) chép: “Thần họ Nguyễn, huý Phục, người xã Đoàn Tùng, huyện Gia Phúc, xứ Hải D­ương. Đỗ Tiến sĩ triều Lê. Làm quan đến chức Thiếu phó. Khi vua đi bình Chiêm Thành, ông được sai vận chuyển binh lương. Sau khi mất được phong là “Đông Hải phúc thần”, rồi sai các thôn xã lập đền thờ. Có nhiều linh ứng, trải các triều đại đều có phong tặng”.

Việc thờ phụng thần Đông Hải Đại vương, cư dân ở vùng 12 cửa biển từ Thanh Hóa trở vào đến Quảng Bình đều thờ phụng. Ở tỉnh Thanh Hóa có 59 xã thôn thờ Đông Hải Đại vương. Riêng huyện Quảng Xương trước đây có 13 nơi thờ, gồm: Thôn An Vệ, thôn Trường Tân, thôn Hòa Bình, thôn Bào, thôn Cam Bào, xã Tần Các, xã Phú Xá, xã Đa Lộc, thôn Đông Quang, thôn Tiên Trang, xã Triều Dương, xã Xuân Phương, xã Trường Lệ.

Về sự tích tôn thờ thần Đông Hải Đại vương ở làng Phú Xá, xã Quảng Đại được truyền lại như sau: Ngôi đền thờ Nguyễn Phục xưa kia đ­ược xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVI tại khu vực Đình Trống, cách ngôi đền hiện nay khoảng 200m về phía Bắc. Lâu ngày, ngôi đền bị hư­ hỏng hoàn toàn. Một thời gian dài sau đó, (khoảng đầu thế kỷ XVII), có ng­ười ở làng Phú Xá làm nghề đẩy kheo đánh moi, một hôm ra biển đẩy kheo thì có khúc gỗ lạ (nguyên là gỗ của Đền thờ Đông Hải Đại v­ương đã bị dỡ bỏ) chui vào túi súc, ông liền đổ ra rồi vác kheo sang quãng khác để đánh tiếp thì lại nhìn thấy khúc gỗ kia trôi ngay tr­ước mặt. Ông lại tiếp tục vác kheo tránh đi một lần nữa, không ngờ, khi nhấc túi súc lên thì khúc gỗ nọ lại đã nằm gọn trong túi l­ưới. Thấy lạ, ông liền quảy cả súc kheo cùng khúc gỗ kia đem về. Trên đ­ường về nhà nghĩ ngợi thế nào ông vứt bỏ khúc gỗ xuống vệ đường. Không ngờ, chỉ sau một đêm, khúc gỗ kia đã bị mối bắt ăn hết và đùn lên thành một tổ mối to. Cho là có điềm linh ứng, dân làng đã lập lên ngôi miếu thờ Đông Hải Đại vương. Cùng thời gian này, ông Cao Đăng Khoa người làng Phú Xá, học hành đỗ đạt và được làm quan trong triều, đã chu cấp tiền bạc, nhân dân trong làng góp công sức xây dựng ngôi đền tại làng Phú ngày nay.

 Đền thờ Đông Hải Đại vư­ơng - Nguyễn Phục tại làng Phú Xá được xây dựng ở một gò đất cao ráo ở vị trí trung tâm của làng, cạnh đường tỉnh lộ 4C. Đền tọa lạc h­ướng chính Nam, cấu trúc theo hình chữ “Đinh”, gồm ngôi tiền đường (3 gian) và ngôi chính tẩm (2 gian), giữa 2 ngôi đư­ợc ngăn cách bởi một sân hẹp. Ngoài ra, còn có bái đường (sân đền) và cổng vào đền có đề 3 chữ Hán: “Tối Linh Từ”, có nghĩa ngôi đền thờ rất linh thiêng.

 Nhà tiền đ­ường có chiều dài 8,3m; Chiều rộng 5,7m. Kết cấu vì theo kiểu giá chiêng, kẻ chuyền, kẻ bẩy tr­ước sau. Nghệ thuật chạm khắc và trang trí đơn giản. Nhà chính tẩm (2 gian) có chiều dài 5,93m, chiều rộng 3,72m. Giữa tiền đ­ường và chính tẩm có một sân hẹp rộng 2,84m, chiều dài chạy dọc theo tiền điện là 8,3m.

Trong đền thờ còn lưu giữ được một số hiện vật cổ như­: Long ngai, giao ỷ gỗ chạm khắc (Thế kỷ XVII); Thần vị Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục cao 1, 25m, rộng 0,30m đ­ược sơn son, thếp vàng.Trong lòng thần vị có hàng chữ đề: “Đông Hải Đại v­ương - Tướng quân Lê Triều, Tiến sỹ danh thần đặc tiến..... Thái Bảo Thần vị”. Tượng Võ sĩ đứng chầu được bài trí hai bên tả - hữu hậu điện. Ngoài ra, còn có hai đôi câu đối bài trí trong đền.

Câu đối 1:

    "Khoa giáp ức niên l­ưu Việt quốc

    Miếu đ­ường thiên cổ lãm thần uy"

Tạm dịch:

                   Khoa giáp vạn năm l­ưu nư­ớc Việt

                   Miếu đ­ường nghìn thuở vẫn lẫm liệt uy danh bậc thần.

Câu đối 2:

                   “Vạn đại thần từ tồn tại bản

                   Thiên niên phụng sự phúc ph­ương dân”.

Tạm dịch:

    Vạn đời đền thờ Thần vẫn tồn tại trong bản xã

             Nghìn năm phụng thờ thần để phúc lại muôn dân.

Ở chính điện có bức y môn, trên bức y môn là bức đại tự “Thánh cung vạn tuế”. Trong đền, các đồ tế lễ nh­ư trang phục, tàn lộng, bát bộ binh khí... Đặc biệt, 2 bên tả hữu vẫn còn giữ đ­ược các bộ câu đối, một hòm sắc lớn ngày xư­a có tới 10 đạo sắc, nay chỉ còn giữ đ­ược có 2 đạo sắc.

 Việc tế tự theo điển phép, hàng năm có 2 ngày lễ trọng: Mùng Một tháng Giêng và ngày giỗ kết hợp với lễ Cầu Ngư vào ngày 16 tháng 4 (âm lịch). Trư­ớc khi tế lễ, các vị cao niên trong làng cho chồng kiệu và bài vị của các vị thần chủ tr­ước sân đền để làm lễ "Mộc dục" (tắm rửa đồ thờ). Sau đó r­ước linh vị Thần chủ đi xuống chùa Đồng Bông rồi trở về đền. Đội hình rước gồm có kiệu, tàn, lộng, tiếp đến là đội hình bát âm, thanh la chiêng trống. Sau cùng là già trẻ, gái trai trong làng ngoài xã nối thành một hàng dài.

 Nghi thức tế lễ được cử hành theo cuộc đại tế. Lễ vật dùng để dâng cúng đư­ợc kiểm soát rất cẩn thận.Vào ngày 16 tháng 4 hàng năm còn tổ chức lễ cầu ngư­, nhân dân mua sắm lễ vật, làm thuyền "đầu rồng đuôi cá", cùng các sính lễ, thức cúng nh­ư thịt sống, gạo, muối, trầu r­ượu, thanh bông hoa quả để cúng tế. Sau phần tế, làng cử ra một chủ thuyền vừa ngư­ dân giỏi, vừa là ng­ười có uy tín, gia đình không có đại tang hay tiểu cớ để chở thuyền rồng ra tận ngoài" ba hàng sóng" để thả thuyền, khấn xin “Ngài” phù hộ độ trì cho ngư­ dân khai thác đánh bắt trên biển gặp nhiều may mắn.

Sau phần lễ là phần hội, tùy theo tiết thời Xuân - Hạ - Thu - Đông để tổ chức các trò vui như: Đánh đu; Vật giải, Kéo co, hoặc mời ph­ường bội, rối hát về hát múa, tổ chức các trò vui cho nhân dân có khi kéo dài đến ba, bốn ngày liền.

Trải qua những biến cố thiên nhiên, lịch sử, đền thờ Đông Hải Đại vương bị xuống cấp nghiêm trọng. Một số đồ thờ cũng bị h­ư hỏng và mất mát. Đến năm 1982, ngôi đền thờ được trùng tu tôn tạo bằng sự đóng góp tự nguyện của nhân dân trong vùng và kinh phí ngân sách địa phương. Đến ngày 23 tháng 3 năm 1999, Đền thờ Đông Hải Đại vương xã Quảng Đại được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 96/QĐ-VHTT. Từ đó, hàng năm, nhân dân trong vùng vẫn th­ường xuyên đóng góp, tu bổ, sửa chữa và mua sắm thêm các đồ khí tế. Cuối năm 2008, đền lại đ­ược nhà n­ước hỗ trợ kinh phí để tu sửa, nâng cấp khu nhà hậu cung với tổng số kinh phí lên đến hàng trăm triệu đồng.

Từ bao đời nay, tín ng­ưỡng tôn thờ thần Đông Hải Đại vương được người xưa tôn sùng, đời nay ngưỡng mộ và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cư dân ven biển, trong đó có cư dân làng Phú Xá, xã Quảng Đại, huyện Quảng Xương. Trong tương lai không xa, khu du lịch Nam Sầm Sơn đ­ược mở ra, đền thờ Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục ở làng Phú Xá, xã Quảng Đại chắc chắn sẽ là điểm thu hút du khách tham quan chiêm ngưỡng.


 

 

NHÀ THỜ DÒNG HỌ THỪA

NƠI THỜ THỪA VĂN MÔNG

(Xã Quảng Đại)

 

Nhà thờ họ Thừa xã Quảng Đại, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa thờ Tướng quân Thừa Văn Mông và các bậc tiên hiền dòng họ Thừa. Nhà thờ họ Thừa nằm ở trung tâm làng Thủ Phú. Làng Thủ Phú được thành lập từ đầu thời Nguyễn với tên gọi là xã Phú Xá, gồm một phần đất phía Đông sông Rào của các xã Quảng Hùng, Quảng Hải và toàn bộ xã Quảng Đại, được tách ra, lập thành các làng Hải Nhuận, Yên Nam (nay thuộc xã Quảng Hải), phần còn lại đổi thành làng Thủ Phú, tổng Thủ Hộ.

Theo những tài liệu cổ và gia phả dòng họ Thừa thì tướng quân Thừa Văn Mông (chưa rõ quê gốc) khi đến trấn nhậm ở Phú Xá là tổ đời thứ nhất, trước đó cụ đã được phong chức Bách hộ trong đội thủy binh chủ lực bảo vệ vùng biển, sau này là người có công lao trong việc bảo vệ vùng biển và xây dựng trang ấp Phú Xá cho đến năm Nhâm Dần (1782), lại có công đưa thuyền và dân binh tham gia dẹp loạn, giúp nhà vua kế ngôi vua, nên xét công phong là Tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh Tư suý kiêm tráng sĩ, Thiết kị uý, phó Thiên hộ trung liệt.

Hiện nay, tại nhà thờ họ Thừa còn lưu giữ một số tư liệu, cổ vật quý giá, đó là:

Đạo sắc phong thời Lê năm Cảnh Hưng thập tứ niên, nhị nguyệt, nhị thập lục nhật (1784) phong tặng tướng quân Thừa Văn Mông tham gia các chuyến thuyền nan của quân đội triều đình vào năm Nhâm Dần, có công lao lớn, được phong Tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh Tư suý kiêm tráng sĩ, Thiết kị uý, phó Thiên hộ trung liệt.

Đạo sắc phong thời Nguyễn năm Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (25/7/1924) ghi: "Sắc Thanh Hóa tỉnh, Quảng Xương huyện, Thủ Phú xã, Trường Minh giáp vâng lệnh thờ phụng Tráng tiết tướng quân, Khâm kị uý Thừa Văn Mông phủ quân tôn thần… lại gia tặng thêm mỹ tự là bậc thần Dực bảo trung hưng linh phù. Cho phép các thôn xã trên phụng thờ để thần ngầm giúp dân".

Nội dung bức thần chủ cổ viết cháy trên gỗ cho biết ông được phong Tráng tiết tướng quân, Khâm kị uý Thừa Văn Mông phủ quân tôn thần, nhân việc nhà vua nhớ về công lao của thần thăng lên một bậc. Tặng thêm mỹ tự là bậc thần Dực bảo trung hưng linh phù. Cho phép thôn xã phụng thờ thần để thần ngầm giúp dân.

Theo truyền ngôn của dòng họ, nhà thờ họ Thừa được triều đình cấp tiền xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII, uy nghiêm bề thế, khuôn viên rộng rãi, gồm trung đường và hậu cung, hai bên là 2 dãy nhà dải vũ, cổng được xây 4 trụ biểu, sau cổng vào là bức bình phong kiểu cuốn thư, tường rào vây xung quanh di tích.

Các cổ vật bằng gỗ còn lại như: 2 cỗ long ngai, 1 thần vị, 1 thần chủ, 2 thanh kiếm thờ, 1 khay mịch, 1 hộp đựng sắc, 3 đài rượu nhỏ, 3 đài rượu to, 1 mâm bồng, 2 chân nến, 1 văn án, 2 chân nến, 2 ống hương, bộ chấp kích, 2 biển danh thần.

Cổ vật đồng gồm có 1 chuông thờ, 1 thanh la, 1 tẩu đồng, 1 khóa cửa. Cổ vật chất liệu sứ có 1 lư hương, 6 chiếc đĩa, 5 chiếc bát, 2 nậm rượu.

Do ảnh hưởng của thời gian, nhà thờ bị đổ nát. Những năm cuối thế kỷ XX, con em dòng họ Thừa đã tôn tạo lại nhà thờ trên nền đất cũ, quay mặt hướng Đông, kiến trúc kiểu chuôi vồ, với 3 gian trung đường và 2 gian hậu cung. Tiền đường dài 7m, rộng 4,5m, vật liệu xây dựng bê tông cốt thép, mái được trang trí lưỡng long chầu nhật. Hậu cung xây cấp 4, trốn cột, phân gian bằng vì kèo gỗ, bộ mái bằng hàng hoành tải và li tô bằng gỗ tứ thiết, đây là những vật liệu của nhà thờ cũ còn lại. Thượng lương không ghi mộc văn, mái lợp ngói. Nhìn chung, nhà thờ họ Thừa, dù mới được xây dựng bằng vật liệu hiện đại, chưa được phù hợp với kiểu kiến trúc truyền thống, nhưng vững chắc, phù hợp với khí hậu vùng biển, không gian nội thất thoáng mát.

Nhà thờ họ Thừa là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống của con cháu trong họ và nhân dân trong vùng. Những ngày lễ tết và kỵ nhật tại đây thu hút đông đảo con em trong họ và nhân dân địa phương.

Hàng năm, cứ đến ngày 16 tháng Giêng, là ngày kỵ nhật của Mông Phủ Quân Tôn Thần, con cháu dòng họ Thừa từ các nơi cùng nhân dân xã Quảng Đại tổ chức lễ giỗ tại nhà thờ theo điển lễ của triều đình xưa kia quy định, con cháu trong họ làm lễ tế, các quan sở tại chứng kiến và làm lễ dâng hương.

 Phát huy truyền thống của các bậc tiền nhân, nhân dân xã Quảng Đại cùng con cháu dòng họ Thừa qua các thời kỳ lịch sử, đều có nhiều đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương Quảng Đại tươi đẹp như ngày nay.

 

 

 


 

 

TỪ ĐƯỜNG HỌ TRẦN

(Xã Quảng Đức)

 

Xã Quảng Đức thời Lê được gọi là xã Quảng Tiền, tổng Thái Lai, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, sau năm 1945 được gọi là xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Từ năm 1945, xã Quảng Đức gồm các làng: Hà Trung, Phú Đa, Quang Tiền, Tiền Thịnh, Thần Cốc. Các làng Hà Trung, Phú Đa từ đầu thời Nguyễn đã xuất hiện các tên gọi này, với quy mô là thôn thuộc tổng Thái Lai. Tại làng Phú Đa hiện nay vẫn còn lưu giữ Từ đường họ Trần, ngôi nhà cổ có kiến trúc nghệ thuật độc đáo từ thời Lê Trung hưng.

Ngôi từ đường họ Trần thôn Phú Đa, xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương được xây dựng từ thế kỷ XVIII, mang đặc trưng phong cách kiến trúc thời Lê Trung hưng là nơi thờ các nhân vật lịch sử như: Bách hộ Phấn lực Tướng Quân Trần Công Ích, Bách hộ Phấn lực Tướng Quân Trần Công Khương, Tri huyện Quảng Xương Trần Trọng Giảng. Đặc biệt ông Trần Trọng Giảng có hai sắc phong của triều Tây Sơn còn lại đến ngày nay.

Từ đường họ Trần thôn Phú Đa xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương tọa hướng Đông, nằm giữa thôn (làng) Phú Đa xã Quảng Đức. Từ đường là ngôi nhà cổ 3 gian được xây dựng những năm cuối thế kỷ XVIII, đến nay kiến trúc còn khá nguyên vẹn. Trong từ đường còn có tư liệu Hán - Nôm, phần đồ thờ khá phong phú như: sập hương án gỗ cổ, long ngai, giao ỷ, bài vị.

Nhà từ đường là công trình kiến trúc cổ thời hậu Lê, thế kỷ XVIII. Ban đầu là nhà cấu kết vì 2 đầu có 6 cột (hai cột cái, hai cột quân, hai cột hiên) hai vì giữa có 4 cột (hai cột quân, hai cột hiên trốn hai cột cái) phía trước có 3 chuồng cửa bức bàn cổ, ba mặt (hai hồi và phía sau), rường gỗ (liệp bản), vách đố lụa. Đến năm 1990, phần gỗ bị mại ở chân nên sửa chữa và cho xây 3 mặt (hai hồi và tường hậu), tháo dỡ hệ thống cột hiên sau, xây dựng tường bao giữa cột (cột cũ)

Hệ thống vì: cả 4 vì đề hệ thống kẻ bảy, kẻ truyền trước và sau, ở móc 4 vì đề là chồng rường giá chảy. Kiến trúc Từ đường họ Trần mang đậm nét kiến trúc truyền thống thế kỷ XVIII, toàn bộ kẻ bảy được soi chỉ cầu kỳ kẻ chạm tứ quý và các lá, hoa, vân, mây. Các điểm tiếp giáp cấu kiện như kẻ thượng, kẻ giữa, xà, đầu cột có chạm khắc tinh xảo, tự nhiên, chau chuốt.

Hệ thống vì nóc có kết cấu kiểu giá chiêng, chồng rường, nét chạm khắc mềm mại, uyển chuyển. Từ câu đầu lên nóc, nét chạm uốn lượn như cánh chim đang bay. Các đấu kê trên lưng giá chiêng chạm hình cánh sen, tiếp đến gối đỡ thượng lương hình mỏ vẹt chạm. Ở gian giữa bụng câu đầu và bụng quá giang soi chỉ nét kép cầu kỳ, qúa giang được soi chỉ cả ba mặt: 2 mặt bên và phần bụng. Các vì liên kết với nhau bởi hệ thống xà đại, xà thượng và xà con. Các xà dọc ngang soi chỉ hai mặt, đầu quá giang chạm lá vân mây uốn lượn vắt xuống đầu nghê, tạo nét uyển chuyển, gắn kết với nhau.

Từ hai hồi long lên bụng câu đầu còn giữ nguyên vách đố lụa, ván nong dựng dưới bụng xà lòng chạm trổ các họa tiết tinh xảo. Phần trước và sau ở đầu cột quân còn nguyên vẹn 6 bức xuân hoa, phía trước là bức xiên hoa con tiện xen kẽ các ô ván, phía sau là bức xiên hoa kiểu hoành phi khắc chữ Hán.

Các cụ cao niên cho biết, Từ đường đã có từ lâu đời, thời gian xây dựng có lẽ vào năm 1737. Qua đặc điểm kiến trúc và chạm khắc trang trí, hiện vật cổ như đồ thờ, bình hương, long ngai, chúng ta có thể kết luận đây là kiến trúc đặc trưng thời Hậu Lê.

Điều đáng chú ý tại từ đường còn lưu giữ được bốn đạo sắc phong, trong đó có 2 đạo thời Tây Sơn, xin trích dịch một đạo ban phong cho ông Trần Trọng Giảng:

Sắc cho Tri huyện Trần Trọng Giảng, người xã Quang Tiền, tổng Thái Lai, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia vì cần mẫn lâu ngày lo công việc, chuẩn phong chức Hữu Quản lý, tước Nam, đáng được phong: Cung thận lang Ngọc Sơn huyện Hữu quản lý, tước Giảng Đức nam, nắm quyền khám vân lo các công việc Từ tụng cùng đốc thúc công việc tiền lương, hãy nhận chức không được kêu khó, nếu lười sẽ căn cứ theo chương sớ trị tội. Vâng sắc.

Ngày 1 tháng 7 niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2(1794) đời Nguyễn Quang Toản.

 

 


 

 

NGÔI NHÀ CỔ CỦA GIA ĐÌNH ÔNG LÊ VĂN NGẠN

(Xã Quảng Định)

 

Nhà cổ của gia đình ông Lê Văn Ngạn ở làng Tiên Vệ, xã Quảng Định, huyện Quảng X­ương, tỉnh Thanh Hóa, đ­ược xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh theo Quyết định số: 318/ QĐ-UBND ngày 4 tháng 2 năm 2009. Ngôi nhà từ xư­a đến nay thuộc quyền sở hữu của con cháu dòng họ Lê, hiện nay do gia đình ông Lê Văn Ngạn (đời thứ 9) sinh sống và cũng là nơi h­ương khói cho tổ tiên dòng họ.

 Quảng Định là xã nằm trong vùng đồng bằng Thanh Hóa, vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, đòi hỏi trong quá trình xây dựng con ng­ười phải linh hoạt để thích ứng. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà đ­ược liên kết bằng mộng, theo nguyên tắc lắp ghép rất linh hoạt, khi cần phải thay thế một bộ phận bị hư­ hỏng cũng thuận tiện, không làm ảnh h­ưởng đến toàn bộ. Không gian bố trí của ngôi nhà vẫn giữ được yếu tố truyền thống điển hình. Xung quanh nhà ở là khu vườn trồng rau màu và cây ăn quả, vừa để làm cho không gian thêm mát mẻ, vừa có tác dụng cung cấp thêm nguồn thực phẩm cho gia đình. Phía sau là ao cá, nhờ có ao, khí hậu trong nhà đ­ược cải thiện, dịu mát khi trời nóng và tăng độ ẩm khi trời hanh khô.

Nhà ngoảnh mặt h­ướng Đông, xây theo kết cấu kiến trúc hình chữ Nhất trên một khoảnh đất rộng có diện tích 1.920m2. Căn cứ vào những dòng chữ trên Th­ượng l­ương, chúng ta có thể biết đ­ược ngôi nhà này đ­ược xây dựng vào thời Nguyễn, từng đ­ược con cháu trong dòng họ (đặc biệt là gia đình ông Lê Văn Ngạn) nhiều lần trùng tu tôn tạo, lần trùng tu gần đây nhất là vào năm Minh Mệnh thứ 11 (1830).

Kết cấu kiến trúc của ngôi nhà khá cân đối: các cặp vì kèo đối xứng với nhau theo chiều dọc và trang trí không mấy cầu kỳ. Những mảng chạm khắc thể hiện chủ yếu ở hai vì thuận (đặc biệt là vì phía Bắc), nhất là trên các bức cốn mê, câu đầu, con r­ường và trên những bức xiên hoa. Hoa văn trang trí chủ yếu là những hình hoa cúc, hoa mai đ­ược vẽ trực tiếp lên những bức xiên hoa. Những mảng chạm khắc và những họa tiết hoa văn hình hoa lá làm cho những cấu kiện gỗ của ngôi nhà càng uyển chuyển, mềm mại. Nghệ thuật trang trí và và kiến trúc của ngôi nhà mang phong cách nhà ở dân gian truyền thống cuối thế kỷ XVIII - đầu XIX ở vùng đồng bằng ven biển Thanh Hóa.

Ngôi nhà cổ có kiến trúc 5 gian (3 gian giữa và 2 gian chái).

Bố trí nội thất trong nhà hoàn toàn mang tính truyền thống của một nhà thờ dòng tộc:

- Gian chính, gian giữa thờ các ông đời thứ nhất là Lê Trọng Đôn (thủy tổ); đời thứ hai - con ông Đôn là Lê Văn Lý; đời ba ông Lê Văn Thản; đời 4 ông Lê Văn Cách; đời 5 ông Lê Văn Dặn.

- Gian phía Nam bên hữu thờ ông bà Lê Văn Mão (đời thứ 6).

- Gian phía Bắc bên tả thờ ông bà Lê Đức Ân (đời thứ 7) và ông bà Lê Văn Khoa (đời thứ 8).

- Gian chái phía Nam dành riêng cho phụ nữ sinh hoạt trong gia đình.

- Gian chái phía Bắc xưa kia là nơi dạy học, hiện nay trở thành nơi tiếp khách của gia đình.

Ngôi nhà cổ của gia đình ông Lê Văn Ngạn là một minh chứng khá hiếm còn lại, thể hiện đời sống tinh thần của mỗi gia đình dòng tộc, tạo nên nét đẹp gia phong trong đời sống xã hội nông thôn. Trong lịch sử nhiều ngôi nhà cổ đã từng phải gánh chịu những vết hằn của bom đạn chiến tranh. Ngày nay trư­ớc cơn lốc của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu hư­ớng đô thị hóa nhanh chóng, đang dần làm mất đi những nét độc đáo của nền kiến trúc cổ. Tr­ước thực trạng này, nếu chúng ta không bảo tồn và quy hoạch một cách hợp lý, thì chẳng mấy chốc những công trình kiến trúc cổ dân gian này sẽ chỉ có thể đ­ược nhìn thấy trên hình ảnh mà thôi. Bảo tồn không có nghĩa là ngăn chặn sự phát triển và phát triển không phải là xoá bỏ tất cả, mà phát triển trên nguyên tắc kế thừa, chọn lọc tiếp thu và phát huy những gì tốt đẹp.

Ngôi nhà cổ của gia đình ông Lê Văn Ngạn là một trong những di sản quý báu của gia đình, của địa phư­ơng cần phải đ­ược bảo vệ và giữ gìn trong nhận thức ấy.

 

 


 

 

ĐÌNH - CHÙA LÀNG BÙI

(Xã Quảng Giao)

 

Tương truyền vào thời kỳ nhà Lý (1010-1225) ở vùng đất này chỉ mới có 2 gia đình đến đây lập nghiệp đó là gia đình ông Phi và gia đình ông Y. Ít lâu sau có một vị hòa th­ượng đi qua thấy vùng đất này có phong thủy là “ hội thủy lai triều, Ngũ long quần tụ ” bèn chiêu mộ dân đinh đến khai cơ lập nghiệp, đặt tên làng Bùi, tức tên làng là do tên hai gia đình ông Phi và ông Y ghép lại(1).

Đình làng

Xưa kia tr­ước chùa Thống có một mảnh đất rất rộng, thế đất rất đẹp được dân làng chọn làm nơi xây cất Đình Trung. Năm Quý Mùi (1763), làng đã xây dựng ngôi đình. Do làng Bùi có 5 xóm, mỗi xóm đều có nghè thờ Thiên thần và có hai miếu thờ hai vị công thần là ông Nguyễn Đồng Tụy và ông Nguyễn Xuân Mậu. Đình tọa lạc ở giữa làng cùng với Đình Chùa, làng còn có Văn từ thờ Đức Khổng Tử và là nơi làng làm lễ cầu khoa hàng năm.

Đến đời vua Tự Đức, năm Mậu Thân (1848), đình làng đ­ược trùng tu lớn. Đình gồm có 5 gian, làm thêm hiên tiền, kẻ chuyền, địa thu bằng đá, xây 2 cột tháp và dựng văn bia ghi chép. Hiện nay văn bia “ Nguyễn Lệnh công phối thần bi văn” còn đang dựng tại sân đình.

 Theo nội dung văn bia thì lời văn đư­ợc soạn d­ưới triều Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hư­ng thứ 29 (1770), do Tiến sĩ Nguyễn Hoàn đư­ợc tiến phong Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng, Thượng thư­ bộ Lại, Quản lý Quốc Tử giám về trí sĩ, sau đó đ­ược khởi phục Quốc lão Tham dự triều chính, Phụng thị ngũ lão, Đại tư­ không t­ước Viện Quận công soạn lời văn, mãi đến năm Canh Thân (1920) đời vua Khải Định con cháu mới đem trình bản xã, và bản xã cho dựng bia.

Nội dung ca ngợi công đức của ông Nguyễn Xuân Mậu đ­ược dân làng bầu hậu là Phúc thần phối thờ trong làng. Ông là một vị quan thanh liêm d­ưới triều hậu Lê, giữ chức Kim tử Vinh lộc đại phu, Nội sai phủ liêu, Phó tri lễ phiên hành binh phiên, Hữu t­ượng kỳ cai kỳ quan kiêm Tổng Thái giám, nh­ưng đội cơ tự bi tả bi, hữu ty lễ giám. Đ­ược tặng phong Th­ượng trụ quốc, Vũ huân T­ướng quân thần vũ, Tứ vệ quân vụ sự, Điện tiền đô điểm ty, Tả hiệu điểm, tước X­ương Trung hầu. Văn bia còn ghi các điều lệ dân trong vùng kỵ lễ theo qui định đã đề ra.

Đình được khởi dựng vào cuối xuân năm Tân Tị (1861) đời vua Tự Đức, kiến trúc đình 5 gian, mái lợp ngói mũi, tường xây bao, kết cấu 6 vì gỗ. Vì 1 và vì 6 có kết cấu giống nhau, có 2 cột cái thuận và 2 cột quân, các cột cái thuận đều cao 4,40m, đường kính 0,35m, cột quân cao 3,5m, đường kính 0,30m. Họa tiết hoa văn của vì 1 và vì 6 đối xứng nhau, đầu vì nóc chạm khắc họa tiết chạm phượng, kẻ truyền chạm khắc long hóa ẩn vân, nách kẻ hạ chạm đầu long ẩn, kẻ hạ chạm ly chạy ngược lên nóc.

Kết cấu vì 2, 3, 4, 5 giống nhau, mỗi vì trốn cột cái tiền. Kết cấu các vì theo kiểu con so đều được chạm nổi hình mặt rồng, kẻ truyền liên kết được trạm rồng ở đầu các con so là các giải liệt liên kết kiểu hoa lá. Nách mỗi kẻ đều trạm hình long ẩn.

Nét đặc biệt ở đình là bộ xà ngạch gồm 5 chiếc đều làm bằng đá nguyên khối, xà ngạch được đục công phu, nhẵn nhụi, bậc trong đục lỗ tròn để lắp cửa. Viền ngoài mặt xà được chạm chân khay.

Bảy hiên dài 1,6m có tiết diện 0,32 x 0,30m. Bộ bảy hiên tại đình còn tương đối nguyên vẹn, được chạm khắc công phu. Mặt chính bảy số 3 và 4 được chạm cùng một đề tài rồng, tư thế uốn lượn dáng như đang bay vào trong đình. Xung quanh rồng điểm xuyến bằng những quần mây. Mặt bên của bảy số 3 và 4, các bảy 2 và 5 cũng chạm đề tài long hóa ẩn vân. Bảy số 1 và số 6 được chạm đề tài long phượng. Tất cả các đề tài chạm khắc trên bảy đều theo kỷ thuật chạm boong. Hệ thống cột hiên đều được làm bằng đá nguyên khối, thềm hè đình đều được bó nền bằng đá xanh.

Do thời gian quá lâu, các mảng chạm khắc bị mất và mối mọt, phần mái bị hư hỏng rột nát. Năm 2009, được sự quan tâm của chính quyền địa ph­ương, sự đóng góp hảo tâm của tín khách thập phư­ơng và bà con sống xa quê h­ương, Đình đ­ược trùng tu sửa sang hoàn toàn lại phần mái, lát lại phần nền và sân tường bao xung quanh. Đặc biệt, những phần cấu kiện chạm khắc tr­ước đây bị mối mọt, mất thì nay đã đ­ược trùng tu, mô phỏng theo nguyên gốc ban đầu. Trong Đình thờ ba vị Thần hoàng làng là: Khai cơ Thành hoàng tôn thần, Can Trúc thành hoàng tôn thần và Thiên diệu Thành hoàng tôn thần. Ngoài ra làng còn phối thờ hai vị quan đ­ược dân làng bầu hậu là Phúc thần là Quế Lộc hầu Nguyễn Đồng Tụy và X­ương Trung hầu Nguyễn Xuân Mậu.

Chùa làng Bùi

Nằm ngay phía sau đình, cho đến bây giờ, dân làng đều không rõ Chùa làng đ­ược xây dựng từ bao giờ, ngày nay chỉ còn lại tấm bia “Hậu phật tu tạo thạch bi” dựng niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706) hiện dựng trong sân đình. Căn cứ theo lời văn ghi trong bia thì chùa có tên là “Thống tự” (Chùa Thống). Nội dung ghi lại việc toàn bộ quan viên h­ương sắc trên d­ưới thôn Bùi xã Chàng Xá, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia ghi chép thừa nhận việc hậu Phật đối với bà vợ vị quan trong làng là Lê Thị Lục hiệu Diệu Trí và bà Nguyễn Thị Tuy hiệu Diệu Hạnh. Hai bà là ng­ười tính tình hòa thuận, đạo đức tiết hạnh, có ý mong cầu sinh đ­ược quí tử quí tôn, bỏ tiền tu sửa chùa và mua hai khu đất (phía Đông, phía Tây chùa) mỗi khu 2,5 sào để canh tác lấy tiền hương khói thờ phụng trong chùa...

Quy mô chùa Thống gồm 3 gian, kết cấu kiến trúc theo kiểu chồng rường, bẩy kẻ, cửa bức bàn bao bộ, mái lợp ngói vỉ, xung quanh xây t­ường thấp, gian giữa có bệ thờ 3 vị Tam Thế ngồi trên tòa sen, sơn son thếp vàng, gian phía Đông đặt t­ượng Đ­ường Tam Tạng và tượng bà Tiểu Kính có con vịt đậu trên vai và một t­ượng đứng hầu bên cạnh, gian phía Tây có 2 tượng Long Thần Thổ Địa bằng đất nung to hơn ng­ười bình th­ường, cũng đ­ược sơn son thếp vàng. Năm 1949, chùa bị bom đánh sập hoàn toàn. Những năm gần đây mới tu tạo lại, xây tường gạch, cấu trúc vì kèo gỗ, bên trên lợp ngói Tây.

Đặc biệt chùa có ba hiện vật quý hiếm, một chuông đồng màu đen cao gần 1 m đường kính 0,45m có viền và hoa văn rất đẹp, trên mặt chuông có một hàng lạc khoản chữ Hán ghi rõ “ Thiệu Bảo đệ nhị niên” (tức là chuông đúc niên hiệu Thiệu Bảo thứ 2 (1280) đời Trần Nhân Tông). Một trống cũ, tang trống là một thân cây dâu cổ, hổng ruột đ­ường kính 0,50 m sơn màu đỏ, đây là phần gốc cây dâu cổ thụ đã sống bao nhiêu đời. Khi gõ vào mặt trống phát ra tiếng “thình thình” chứ không phải “tùng tùng”. Một cái mõ cũng bằng gỗ dâu đường kính 0,40 m gõ vào phát ra âm thanh “cúng cúng” chứ không kêu “cốc cốc”.

Trống và mõ là do ông Nguyễn Đồng Tụy làm quan tại triều Lê Trung hưng khi về h­ưu đã mua sắm và cung tiến cho chùa làng.

Tr­ước sân chùa có chùm cây Thiên tuế, một dàn hoa giấy màu đỏ tím, một hàng cúc vàng rực rỡ, ngoài ra còn một khánh đá hình tam sơn dài 2,5 m giữa khánh chạm mặt nguyệt, chung quanh chạm viền nổi, gõ vào phát ra âm thanh “cung kinh”.

Không biết nhà sư­ nào có tâm hồn nhạc đã phổ một khúc tr­ường ca phổ độ từ bi - hỉ- xả gồm chuông khánh trống mõ mà mỗi lần tấu lên thì như­ cả làng đều nghe và đều h­ướng về chùa cầu mong sự an bình cực lạc, dư­ âm đó như­ còn vang vọng đến bây giờ. Bản hòa tấu này vấn diễn ra đều đặn đến tr­ước năm 1945 thời mà ông Đặng Nga Trung giữ Đình và Chùa cho làng. Những năm sau đó trong xu thế chung chùa bị phá, mãi đến năm 1995 theo nguyện vọng của nhân dân, Đảng ủy chính quyền địa ph­ương quyết định cho xây dựng lại ngôi chùa nh­ư hiện nay. Ngôi chùa chỉ một gian, qui mô nhỏ làm nơi hương khói cho dân làng và tín khách thập phương.

Hàng năm cứ vào trung tuần tháng 3 Âm lịch, làng Bùi tổ chức tế lễ tại Đình Trung và tại các Nghè, Phủ, Miếu trong làng.

Kết hợp với việc tế Lễ tại Đình, hàng năm làng mở hội chợ Bùi kéo dài tới một tháng.

Những sự kiện đó đ­ược ghi lại trong bài Vè của Làng:

             Làng Bùi rúc rích mà vui

             Có cả bà Mùi có cả cố Trung

             Có quan huyện Phùng, có Hầm Tiền gia

             Làng Bùi mở hội tháng ba

             Lựa chọn đàn bà bư­ớc vào tế quan...

Hoặc

             Thanh minh trong tiết tháng ba

             Làng Bùi mở hội cờ hoa rợp Trời

Hoặc

             Tháng ba vào tiết thanh minh

             Làng Bùi mở chợ quan Kinh đứng đầu.

Thời gian mở hội làng đều tổ chức nhiều đêm “hát Bội”, chèo thuyền đốt pháo, chơi bài điếm, chiếu phim câm (Cinéma muet), đấu vật...

Hàng năm cứ đến kỳ thi cử, làng tổ chức “lễ cầu khoa” rất trang trọng tại Văn chỉ (tư­ văn) và họp làng Văn tại Tư­ Vũ (nơi thờ Đức Khổng Tử) để bàn việc học trong làng.

Đặc biệt những năm hạn hán, huyện đ­ường đều tổ chức “Lễ cầu m­ưa” (đảo vũ) tại đình làng Bùi, các làng trong tổng Thủ Chính đều rước thành hoàng tập trung về đình làng Bùi để làm lễ.

Chùa làng Bùi đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh, nhân dân trong vùng th­ường đến cầu an, cầu tài, cầu phúc. Vào các ngày tuần rằm, mồng một hàng tháng, ngư­ời đến chùa đông đúc, dâng hương niệm phật, cầu những điều may mắn đến cho mọi ng­ười.Con em trong làng đỗ đạt thành tài đến tạ trời đất tổ tiên. Chùa làng Bùi xưa nay th­ường thấy khá đông những ng­ười thành đạt, các cô cậu học trò, các sĩ tử đến đình chùa thăm viếng, đặc biệt con em làm ăn xa quê mỗi dịp về làng, hay các vị khách vãng lai không quên đến lễ tại chùa. Nơi đây là kỷ niệm đẹp trong lòng mỗi ng­ười con xa xứ. Một minh chứng mảnh đất làng Bùi cho đến nay đã có 12 tiến sỹ, giáo s­ư và hàng trăm đại học đang giúp ích cho đất n­ước.

Có thể nói đình Chùa làng Bùi, một di sản quí của cha ông để lại đang đuợc cháu con gìn giữ và phát huy giá trị, làm tăng thêm tình cảm và làm giàu thêm kỷ niệm đối với những ai đã từng đến.

 

 


 

 

ĐỀN NGHIÊM

(Xã Quảng Giao)

 

Đền Nghiêm, thuộc xóm Nghiêm Trung, xã Quảng Giao thờ 3 vị tôn thần họ Bùi là các vị Thiên Uy,Thôi Quan, Hà Thanh tôn thần.

Làng Nghiêm trước đây thuộc xã Lương Xá, phủ Quảng Xương, gồm các xóm: Nghiêm Trung, Nghiêm Thanh, Nghiêm Phùng, Nghiêm Kênh, Nghiêm Đức, Nghiêm Thịnh. Hiện nay được phân chia: Nghiêm Trung, Nghiêm Thanh thuộc xã Quảng Giao; Nghiêm Phùng, Nghiêm Kênh thuộc xã Quảng Đại; Nghiêm Đức, Nghiêm Thịnh thuộc xã Quảng Nhân.

 Tương truyền, vào đầu thế kỷ XVI dưới ngọn cờ phù Lê diệt Mạc, các ông đã có công chiến đấu chống quân Mạc và anh dũng hy sinh. Khi nhà Hậu Lê giành lại quyền cai trị đất nước, ghi nhận công lao của 3 vị họ Bùi, dưới thời Lê Trung hưng cho xây đền thờ 3 vị tại làng Nghiêm và lấy tên là đền Nghiêm.

Làng Nghiêm có rất nhiều dòng họ sinh sống, trong đó họ Bùi là dòng dõi gắn liền với sự tích của Đền và thân thế của 3 vị Tiền Nhân được thờ phụng trong Đền. Họ Bùi hiện nay có khá đông con cháu, họ sinh sống ở Quảng Đại, Quảng Hải và ở Hoằng Lộc (Hoằng Hóa), họ Nguyễn Danh có người đã từng làm việc trong triều Nguyễn ở cuối thế kỷ XIX là ông Huyện thừa trước đây cũng được lập nghè thờ ở xóm Nang (Nghiêm Thanh). Các dòng họ khác như: Đặng Đình, Phạm Văn, Nguyễn Hữu... đã đóng góp nhiều công sức cho việc xây dựng và bảo quản Đền. Dòng họ Nguyễn Hữu nhiều đời trông coi Đền rất cẩn trọng. Đầu thế kỷ XX, vào năm mưa to gió lớn, đền Nghiêm bị đổ, sau đó dân làng dựng lại Đền bằng công đức của bà con trong làng. Để duy trì việc trông coi thờ cúng. Làng còn có công điền để phát canh, người nhận làm ruộng nộp một khoản cho làng để sắm lễ hương nhang cúng tế.

Trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc: chống Pháp và chống Mỹ, để tập trung cho kháng chiến, các hoạt động tại đền cũng giảm nhẹ, các tập quán tín ngưỡng cũng bị mai một, nhiều Đền, Chùa, Nghè, Miếu bị phá, đền Nghiêm cũng cùng chung số phận với một số đền, chùa trong vùng bị dỡ bỏ, các hiện vật bị thất lạc hư hỏng mất mát. Đền Nghiêm trở thành phế tích. Đền mất nhưng đất Đền vẫn còn nguyên vẹn, cây cổ thụ trăm tuổi vẫn còn, không ai dám lấn, dám chặt, vì không ai muốn ốm, muốn bị thần linh quở trách. Bà con trong làng phải lập bát hương để cúng tế ở gốc cây to và trên nền đất cũ.

Theo các cụ cao niên kể lại, đền Nghiêm được xây dựng từ thế kỷ XVIII gồm 4 khu kiến trúc; Khu hậu cung thiết kế theo kiểu vì kèo quá giang. Khu trung đường gồm 3 gian, 2 vẩy bằng gỗ lợp ngói. Khu tiền đường 5 gian xây tường bịt đốc, cột sườn bằng gỗ, cấu trúc vì kèo trồng rường, mái lợp ngói vĩ. 3 gian giữa thờ 3 vị tôn thần, 2 gian bên để kiệu, trống chiêng, khăn đai áo mũ và sắc phong của triều đình ban tặng.

Vào những ngày tuần hàng tháng và các ngày lễ tết hàng năm, nhân dân trong làng vẫn thường đến Đền dâng hương tưởng niệm các vị tiền nhân đã có công với làng với nước. Đền Nghiêm cũng là nơi tâm linh hướng thiện cho nhân dân trong vùng, cầu cho quốc thái dân an, là nơi để làng tổ chức các lễ hội rằm tháng Giêng, Thanh minh, lễ Vu lan (rằm tháng 7), lễ cúng cơm mới vào lúc vụ mùa gặt hái vừa xong, thường là trung tuần tháng 11 Âm lịch. Sắp đến ngày rằm, bà con trong làng mang kiệu rước vong từ ba Đền nhỏ: Đền Thiên Quan (xóm Phùng), Đền Hà Nê (xóm Nghiêm Thanh - Đại Đồng), Nghè Quan Tổng, tất cả về Đền chính để hành lễ. Thường lễ hội bắt đầu từ ngày 14 Âm lịch hàng tháng, đêm 14 và ngày rằm tổ chức dâng hương cúng tế, đêm rằm có gánh hát chèo về góp vui với dân làng tại sân Đền. Những tập tục lễ hội, nếp sống văn hóa tâm linh này được nhân dân trong làng gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ, trở thành nét đẹp truyền thống in đậm trong tâm trí của mổi con người nơi đây.Tinh thần xả thân vì đất nước của 3 vị tiền nhân họ Bùi đã tiếp thêm hào khí cho lớp lớp con cháu tòng quân cứu nước.

Những ngày đầu cách mạng giành chính quyền, đền làng Nghiêm - sân vận động làng Nghiêm đã từng chứng kiến giờ phút thiêng liêng của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà, trong cuộc mít tinh mừng thắng lợi khi chính quyền về tay nhân dân. Sáng ngày 22 tháng 8 năm 1945, khu vực này là: ”Một rừng cờ, rừng người, gươm giáo, gậy gộc, tiếng hô khẩu hiệu khắp các ngả dồn về’’. Âm vang cách mạng đã lan tỏa từ vùng đất huyện lị này tới mọi miền quê trong huyện, với tinh thần quật khởi và tràn đầy niềm vui của người dân một nước độc lập.

Đến cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với sự ngưỡng mộ về tổ tiên và các vị tiền nhân đã có công xây dựng và bảo vệ quê hương, bà con trong làng đã đề xuất và quyên góp dựng lên ngôi nhà nhỏ trên nền đất cũ của Đền, cấu trúc kèo đòn tay bằng luồng, tuy chưa chắc chắn, nhưng có nơi để lập bàn thờ nhang khói cho tổ tiên, cất giữ cẩn thận các đạo sắc của các triều vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Duy Tân, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định.

Hơn mười năm qua với lòng thành kính hướng về cõi phật, ghi nhớ công ơn của ông cha, người khai dân lập ấp, gìn giữ phong tục tập quán của làng. Tuy không giữ được đầy đủ các hiện vật và duy trì lễ nghi truyền thống, nhưng ngôi đền nhỏ này vẫn là địa chỉ để bà con trong làng đến dâng hương trong những ngày tuần và các dịp lễ Tết. Đền làng Nghiêm rất linh thiêng, phù hộ độ trì cho ai có tấm lòng nhân đức và cầu tiến bộ, các tấm bia đá, các cổ vật, cây vông to trước Đền vẫn tồn tại với thời gian và lòng người trắc ẩn.

Để di tích lịch sử văn hóa đền Nghiêm được xây dựng bảo tồn và phát huy giá trị, đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhân dân, làm cho đời sống tinh thần thêm phong phú, địa phương đã có chủ trương cho phục hồi lại ngôi đền. Nhân dân trong làng rất đồng tình ủng hộ, con em xa gần đã và đang đóng góp công sức cho việc phục hồi nét đẹp văn hóa truyền thống của quê hương.

Với sự cố gắng của các cấp, các ngành, lòng hảo tâm của bà con trong làng trong xã, con em đang sống xa quê, đền Nghiêm sẽ được xây dựng lại, là địa chỉ đón tiếp bà con, khách thập phương về thăm viếng, dâng lên tổ tiên và các vị tiền nhân những gì tốt đẹp nhất, cầu cho mọi người, mọi nhà được bình an hạnh phúc, đất nước thanh bình và giàu mạnh.

 

 


 

 

CHÙA AN ĐÔNG (YÊN ĐÔNG)

(Xã Quảng Hải)

 

Chùa An Đông (An Đông Tự) là nơi thờ Phật và các liệt thánh của Đạo Nội Tràng ở làng Yên Đông (hay An Đông), xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

 Làng Yên Đông xưa thuộc Đại Lộc thôn, với nhiều dòng họ quy tụ sinh cơ lập nghiệp tại đây như họ Nguyễn Văn, Nguyễn Đức, Hoàng Văn, Đào Xuân, Cao Văn, Bùi Ngọc, Trần Trọng, Lê Ích... Quá trình phát triển dân cư, Đại Lộc thôn chia thành 2 làng mới: làng Yên Đông (nay là làng Bồi Nguyên) và làng Mậu Thịnh (nay là làng Mậu Xương) thuộc xã Quảng Lưu.

Tại làng Yên Đông có ông Trần Tướng Công, tức Quỳnh Lâm Hầu do có công lao lớn với nước nên được vua phong tới chức Điện tiền Chỉ huy sứ trong triều. Lúc bấy giờ tuổi ngoài ngũ tuần, ông xin về quê tĩnh dưỡng năm Quang Hưng thứ 18. Ông sinh được một người con trai là Trần Ngọc Lành tức Trần Ngọc Trân được ăn học tại trường Quốc Tử Giám. Khi học hành thành đạt, vì thời thế nhiễu nhương, ông không ra làm quan, mà làm nghề thầy thuốc. Ông đã chữa bệnh cho con Chúa Trịnh. Do vậy, nhà Vua cấp tiền cho phép dạy học ở thôn xứ và phong cho Nội Đạo Tràng. Do có công trong việc chữa bệnh và dạy học, khi ông qua đời được phong tặng: “Thượng đẳng thần”, hiện nay còn có 2 ngôi chùa thờ ông, đó là: Chùa Yên Đông thuộc thôn 6, làng Bồi Nguyên, xã Quảng Hải và chùa Tuyết Sơn Phong Tự tại thôn 2 làng Mậu xương, xã Quảng Lưu và sự tích Phật An Đông giáng hạ tại đây.

Chùa Yên Đông thờ Đức Phật Tổ và các liệt thánh của đạo Nội Đạo. Bố mẹ Ngài thân phụ là Đức Quỳnh Lâm Hầu - Thích Nhân Thượng Sỹ Trần Tướng Công, thân mẫu là Hiệu Từ Ái, sinh ngài vào ngày 11/6 năm Quý Mùi, Ngài được đầu thai con Vua nước Tây Vực là Na - La - Tri - Phật. Ngài có nét mặt như vầng trăng rằm, đức tính ôn hòa, văn thao, võ lược, 2 đường tinh thông. Đến tuần nhị bát cha mẹ cho ngài ăn học ở chốn đế kinh, vào ứng thi đỗ đại khoa, phụ thân Ngài làm quan ở tỉnh Quảng Ninh.

Ngài thấy trong lòng chán ngán bởi thời thế nhiễu nhương nên treo ấn từ quan về nhà phụng dưỡng cao đường cho trọn đạo hiếu. Ngài thấy vậy vẫn không yên tâm, xuất thân làng Từ Minh xã Từ Minh, huyện Hoằng Hóa (nay là Hoằng Long) lập tĩnh đ­ường dạy đạo. Phật thường thường xuống truyền đạo pháp. Một mình Ngài dậy 1.000 đệ tử cả trong Nam ngoài Bắc. Ôn hòa, dịch lệ, tà ma, qủy quái hiện hình, hiện ảnh nhiễu hại nhân dân, Ngài phải mang môn đồ đi trừ Hồ tinh, bắn 12 thần sóng của 12 cửa biển, từ đó dân yên, biển lặng, dân 2 miền làm ăn thịnh vượng. Ngài lại đóng bè chở khách qua sông Mã lấy tiền của người phú, giúp cho người nghèo, Phật trời thử Ngài, mùa đông giá rét Phật trời gọi mỗi tối 10 lần, mới nằm xuống ấm chỗ lại gọi, chống đò sang lại chẳng thấy ai, đợi một lúc lại quay về, cứ như thế suốt đêm. Đến sáng gọi Ngài sang đò mới thấy một ông cụ râu, tóc bạc phơ, chở cụ sang, cụ đau bụng, Ngài sắc nước hoắc hương cho cụ uống, cụ không uống, cụ chỉ ngửi mà khỏi bệnh, cụ đưa một nén bạc cho Ngài, Ngài không lấy và tiễn cụ lên đường, cụ ngoảnh lại nói: “không lấy tiền là tuyệt được chữ tham rồi, đêm đông giá lạnh qua sông tới 10 lần mà không than vãn gọi là tuyệt được Sân rồi”. Về nhà Ngài mới ngẫm lại và ngộ ra, đây là Phật trời thử Ngài.

Tiền của Ngài làm ra đem bắc cầu cống và cứu khổ, hoạn nạn cho dân, Ngài lại chữa bệnh cho Lê Nhân Tông bị bệnh hóa hổ, chữa cho Thái tử bị cảm. Trong khi đó trong nước rối loạn giặc ngoại xâm, Ngài làm quân sư hộ cho Vua Lê dẹp giặc ngoại xâm, Ngài sang nước Tàu sau đó về bái yết nhà Vua. Vua Lê phong sắc dựng Đạo Tràng. Môn học của Ngài chia làm 3 mục: Thượng Thừa Thuyền, Đại Thừa Thuyền, Trung Thừa Thuyền nối theo là Tiểu Thừa Thuyền. Bộ môn học gồm 6 môn: Quán Thiên, Triệt Địa, Duy Sơn, Tắc Hải, Khốc Qủy, Kinh Thần.

Đến năm ngoài 30 tuổi Ngài mới nghĩ đến Đạo phụng tiên du, Ngài mới kết duyên với bà Hoàng Thị Kế quê Hoằng Long, Hoằng Hóa. Một năm sau đức phu nhân sinh được Đức Đệ Nhất mệnh danh là Trần Ngọc Tích, cách 2 năm sau lại sinh được Đức Đệ Nhị mệnh danh là Trần Ngọc Khang, cuối cùng sinh được Đức Đệ Tam mệnh danh là Trần Ngọc Vinh. Ba đức thánh: Đức Thánh tả, Đức Thánh hữu, Đức Thánh tiền. Hai Đức Thánh tả, hữu thăng thiên đường, còn Đức Thánh tiền sắc phong cho Ngọc Sư ở lại trần gian giữ sổ thiện ác của nước An Nam. Đức Phật Tổ đến năm Quý Mùi ngoài 60 tuổi, ngày 28 tháng Giêng thì Ngài hóa thân thành Phật, đạo quả đã tròn, duyên trẩn đã mãn. Năm ấy ngày mùng 8 tháng 10, Đức phu nhân quy hóa Chính phối Nam hải Quán Thế Âm Bồ Tát - Hoàng Quý Thị - Hiệu Chân Khoa Không Phật - Hiệu Từ Kế.

Đức tiền quan đánh nhau với bà Chúa Liễu - tức Bà Liễu Hạnh con Vua Ngọc Hoàng, trong khi yến tiệc lỡ tay đánh vỡ chén ngọc, Ngọc Hoàng mắng vô lễ, bị Ngọc Hoàng đẩy xuống trần gian, bà lấy chồng sinh được 2 con, đến 21 tuổi bà chết. Chết rồi bà còn hóa xác thành người đi về thờ chồng, nuôi con, gia đình và dân làng kinh sợ hoảng hốt. Bà đi buôn bán khắp phố phường, ai mua của bà, bà không ưng ý bà bóp chết tươi. Vua Lê biết thế lấy cớ về thăm gia nội, bà giữ kiệu Vua, ai không nghiêng tàu xuống ngựa bà bóp chết. Vua thấy làm lạ họp các quan lại, mời Đức Thánh Tiền đi dẹp. Nhận lệnh Vua, một mình Ngài cùng quan Tiết chế dẫn quân đi đánh, Ngài đi ngựa vào của phủ bà Hạnh, cho ngựa uống nước suối, cột ngựa trước cửa Đền rồi vào thềm mài kiếm. Bà Liễu Hạnh thấy lạ, từ trên núi xuống mời Ngài vào phòng khách đón tiếp. Ngài thu toàn bộ bí quyết ấn phép của bà rồi trở ra, bố trận cùng quan thiết chế đánh bà, đốt cháy cung miếu 7 ngày đêm, từ Đền Sòng phố Cát vào đến Nghệ An, bà nhảy xuống giếng, nửa âm, nửa dương hóa thành đầu rồng, đuôi tôm, Ngài cho Thần xích, câu, kéo bà lên. Được Phật thế tôn cứu, từ đó bà cải tà quy chính. Nhân dân được bình yên và cho bà về nơi Đền Sòng phố Cát. Sau khi nước nhà yên ổn, duyên trần đó mãn, Ngài Tiền Quan ra Thăng Long tạ Vua Lê về nhà vào Nghệ An hóa thân hiển Thánh vào ngày mùng 8 tháng 7 âm lịch. Mộ của Ngài cất trước cửa Chùa Nhuận, làng Đào Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Còn về chùa Yên Đông thuở xưa, khi khởi thủy tổ chỉ đơn sơ hòa mao nhất tòa, lô nhang nhất Vị, có nghĩa là: (Nhà tranh một cái, lô nhang chỉ có một bát). Đời vua Bảo Đại (1925-1945), ông Lý Bỗng, ông Trần Ngọc Trung, và ông Đái Nguyên Sung cùng bà chủ Tâm, sếp ga xe lửa từ Hà Đông đi Thanh Hóa. Bà vào cung tiến xây dựng gác chuông và tôn tạo tiền đường và cung tiến chuông chùa. Năm (1995), ông Trần Ngọc Toàn cùng anh em trong dòng tộc trùng tu tôn tạo mới toàn bộ chính tẩm. Năm 2005, xây dựng Từ đường và giải tỏa đường vào, xây tường dắc, sắm thêm nội thất gồm: 3 tượng Tam Bảo Phật, 1 tượng Thượng Sư, 1 tượng Đức Ông…

Trải qua gần 100 năm, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kiến trúc cũ của ngôi chùa bị biến dạng. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, anh em dòng tộc cùng với bà con nhân dân trong làng Bồi Nguyên, xã Quảng Hải đóng góp tiền của, trùng tu tôn tạo mới toàn bộ nơi chính tẩm, mua sắm thêm nội thất gồm: 3 tượng Tam Bảo Phật, 1 tượng Thượng Sư, 1 tượng Đức Ông. Chùa Yên Đông đang dần trở lại được như xưa, và đây cũng là địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn nhiều du khách trong xã, trong huyện. Hướng về ngày giỗ Phật 28 tháng Giêng hàng năm, các cụ ông, cụ bà, cùng nhân dân trong làng tổ chức nghi thức tế lễ như xưa, nào là chủ tế, bồi tế, kiệu rồng, cờ, phướn tung bay phấp phới hành lễ tiến về chùa Yên Đông rộn ràng theo tiếng trống tiếng kèn.


 

 

ĐỀN THỜ ĐÔNG HẢI ĐẠI VƯƠNG NGUYỄN PHỤC

(Xã Quảng Hải)

 

Đền thờ Đông Hải Đại Vương, hoặc Đông Hải Tôn Thần, thờ tiến sĩ Nguyễn Phục, ng­ười có công với dân với n­ước, đây là một nhân vật lịch sử, được nhân dân cả n­ước nói chung và nhân dân Quảng Hải nói riêng lập đền thờ tự.

Ông quê ở xã Đoan Tùng, huyện Gia Lộc (nay là huyện Tứ Lộc) tỉnh Hải Dương, thi đỗ Hoàng Giáp tiến sĩ niên hiệu Thái Hòa (1443 - 1453), đời vua Lê Nhân Tông. Ông đã làm quan đến chức Hàn lâm viện Phi viện t­ướng quân, kiêm chức sứ phó dạy học cho các Thân vương, Hoàng Tử trong triều. Năm 1467, ông đ­ược bổ nhiệm chức tham chính sứ, xứ Thanh Hoa. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, ông đ­ược giao chức làm đốc vận quân l­ương bằng đường thủy, ông tập kết nghĩa quân, thuyền chiến, vũ khí, lư­ơng thực để khao quân, xuất quân. Trên đ­ường vận chuyển quân l­ương, đoàn thuyền của ông gặp phong ba bão táp, nên việc đảm bảo quân lư­ơng ông đã chậm trễ, và ông bị tội chết. Sau khi ông chết, nàng Hoàng Mĩ Dạ đã mang thi hài ông về táng tại khu làng Cổ Đàng Mào Cá huyện Yên Mỗ gần nơi ông đóng thuyền l­ương đợi ngày v­ượt cửa biển Thần Phù rồi ở lại đó trông nom phần mộ. Về truyền thuyết nhân vật Nguyễn Phục, sách Thần Tích Việt Nam ghi rõ: Sau khi chiến thắng giặc Chiêm Thành trở về ngay cửa Thần Phù, gặp sóng to, gió lớn biển động mạnh khiến cho đoàn thuyền của nhà vua không thể qua được, một đêm nhà vua thao thức, tai nghe gió gào, sóng dậy, trằn trọc không sao ngủ đ­ược, vua sực nhớ đoàn thuyền l­ương trễ hẹn cũng là do sóng lớn gây ra, trong lòng hối hận th­ương quan đốc lư­ơng bị thác oan, trong lúc mơ màng, vua thấy ông nhung trang tề chỉnh đứng trước g­ương ngự tâu rằng “kẻ hạ thần cảm ơn tri ngộ của bệ hạ nên dẫu thác linh hồn vẫn theo ra chiến trận, nay nhờ hồng phúc Quốc gia, bệ hạ dẹp xong Chiêm hầu, hạ thần lại xin hộ giá khải hoàn". Vua Lê chợt tỉnh trông ra biển Đông đã hửng sáng, đại quân v­ượt biển trở về yên ổn, vua truy phong quan đốc l­ương Nguyễn Phục t­ước “Đại vương biển Đông Hải”. Do có nhiều công lao đóng góp, đánh thắng giặc Chiêm Thành mở rộng đất đai về ph­ương nam. Nguyễn Phục là một danh tướng d­ưới thời Hậu Lê, ông đã có công lao to lớn đánh giặc bảo vệ đất nước, giữ yên bờ cõi. Ông là người có tài kinh bang, tế thế đã giúp cho v­ương triều Lê xây dựng và củng cố một nhà nước phong kiến Đại Việt vững bền. Các t­ướng sĩ và nhân dân vùng ven sông, ven biển, ng­ưỡng vọng ông là một vị thần c­ưu mang họ.

Nhà vua biết ông là ng­ười có công bị xử oan, nên phong cho ông bốn chữ “Minh đạo hiển ứng và sắc chỉ cho dân làng lập đền thờ phụng. Đền thờ danh tướng Nguyễn Phục đ­ược nhân dân cả n­ước xây dựng ở nhiều nơi, riêng tại xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa có một ngôi đền đ­ược nhân dân vùng biển thờ phụng. Trải qua bao thăng trầm biến đổi của lịch sử, do bàn tay vô tình của con người, ngôi đền bị phá hủy, sau một thời gian đ­ược cụ Nguyễn Văn Tuế thôn Bào xã Quảng Hải, đã l­ưu giữ được những tư liệu, văn bản gốc về danh t­ướng Nguyễn Phục: gồm có một hộp to và các hộp nhỏ, trong đó có đựng 13 tờ sắc phong mà các nhà Vua triều Lê và các đời vua triều Nguyễn đã phong tặng cho Ngài. Cụ Nguyễn Văn Tuế thôn Bào, xã Quảng Hải, đã xây dựng lại ngôi đền trên nền đất cũ, đền trở thành trung tâm tín ng­ưỡng thờ phụng vị danh t­ướng Nguyễn Phục. Đền đ­ược xây dựng trên một khu đất hẹp nh­ưng bằng phẳng, thuộc thôn Bào, xã Quảng Hải, tr­ước mặt ngôi đền theo hướng Tây Nam là cánh đồng Khua Ch­ương, mặt trái cửa đền nhìn ra đ­ường liên thôn chạy xuống tận bờ biển, cách ngôi đền khoảng chừng 60 m. Đền thờ cấu tạo ba mái, mái trư­ớc thay thế cho hiên, hai mái sau là khu vực điện thờ. Trên bờ dài và bờ nóc, đ­ược đắp nh­ững đ­ường gờ nổi, các đầu đao đ­ược đắp nổi những con rồng, trên đỉnh mái đ­ược trang trí hình hổ phù đắp nổi. Từ hiên đi vào được trang trí hình những con hạc và một số con vật trong bộ tứ linh. Một bức đại tự bằng gỗ được gắn trang trọng giữa đền với bốn chữ Hán “Đại vương hiển thánh” tiếp đó là một bàn thờ nhỏ, một ngai thờ sơn son thếp vàng (nơi thờ hội đồng các quan), phía trong là một bàn thờ lớn trang trí hình các con rồng. Hai bên là ngai thờ có bài vị và một số tế khí khác bằng đồng và bằng sứ như:­ cây đèn­ hư­ơng, mũ đồng, mũ vải, cờ quạt... Ngoài ra còn có hộp đựng sắc phong và một số câu đối chủ yếu ca ngợi công đức của danh t­ướng Nguyễn Phục. Tuy số lư­ợng đồ thờ còn lại ở đền không nhiều, nh­ưng chứa đựng nội dung lịch sử sâu sắc, biểu hiện lòng tôn kính ng­ưỡng mộ đời đời của nhân dân ta đối với vị anh hùng Nguyễn Phục.

Từ những t­ư liệu đ­ược ghi trong các sắc phong, đền thờ danh tướng Nguyễn Phục thôn Bào, xã Quảng Hải được Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 61/QĐ-VHTT ngày 9 tháng 2 năm 1996. Đây là một di tích cần được bảo vệ trùng tu tôn tạo, để phát huy giá trị văn hóa dân tộc, đáp ứng nguyện vọng thờ phụng tín ng­ưỡng của nhân dân. Từ bao đời nay, nét đẹp văn hóa tâm linh tín ngư­ỡng của nhân dân trong thôn luôn hướng về đền thờ Nguyễn Phục, đã thấm sâu vào cuộc sống lao động của ng­ười dân, lan tỏa đi mọi nơi. Giá trị của di tích đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh hướng thiện muôn ng­ười. Vào các ngày lễ, mồng một, rằm hàng tháng không chỉ nhân dân trong thôn, trong xã và khách thập ph­ương gần xa biết đến cũng đem lòng ng­ưỡng mộ về đặt lễ dâng hương cầu nguyện.


 

 

TỪ Đ­ƯỜNG HỌ ĐINH TRỌNG

(Xã Quảng Hòa)

 

Làng Văn Đông xư­a là ấp Quần Đậu do con cháu hai họ, họ Lê và họ Đinh đến khai phá lập ấp, thuộc xã Văn Trinh, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa. Đến thời Nguyễn, làng Văn Đông đổi thành làng Văn Trinh Đông thuộc tổng Văn Trinh, huyện Quảng Xương. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Đông đổi thành Hòa Đông cho đến ngày nay.

Từ đ­ường họ Đinh Trọng nằm trên đất làng Hòa Đông, thuộc xã Quảng Hòa, huyện Quảng Xương là một công trình kiến trúc có từ thế kỷ XVIII đã đ­ược UBND tỉnh xếp hạng "Di tích kiến trúc nghệ thuật" theo Quyết định số 2382/QĐ-UBND ngày 30 tháng 8 năm 2006. Trải qua biến thiên của lịch sử, sự khắc nghiệt của thiên thiên, từ đường vẫn được bảo vệ, vẫn giữ đ­ược những vẻ đẹp của một ngôi nhà cổ có nghệ thuật kiến trúc từ thời Lê.

Từ đ­ường họ Đinh Trọng là nơi l­ưu giữ những tư­ liệu lịch sử, thờ cúng những ng­ười họ Đinh Trọng có công với n­ước, với dân. Đây cũng là ngôi nhà cổ có giá trị về kiến trúc nghệ thuật dân gian cuối thế kỷ XVIII ở vùng đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa.

Từ đ­ường là một ngôi nhà gỗ có kết cấu hài hòa, chạm khắc hoa văn tinh xảo. Các họa tiết như­ hoa lá, vân mây theo mô típ tứ quý (Tùng - Cúc - Trúc - Mai) chen lẫn Tứ linh (Long - Ly - Quy - Phượng) có giá trị kiến trúc nghệ thuật dân gian.

Từ đ­ường tọa h­ướng Nam, lệch Tây 10 độ, khuôn viên nhà có chiều dài 10.4m, rộng 6.43m, diện tích 65.5m2. Sân tr­ước có diện tích 77m2. Diện tích khu vực 1 (khu bảo vệ) là 142,5m2. Diện tích còn lại hơn 500m2 bao gồm v­ườn hoa, cây cảnh, lối vào nhà...

Cấu trúc Từ đ­ường 4 gian, 5 vì kèo gỗ, có 3 loại vì kèo.

- Vì 1 kết cấu đơn giản, chỉ có 2 cột quân tr­ước và sau, trên cột quân có quá giang, kèo đón lá, hai trụ ngồi trên quá giang. Tr­ước sau có bẩy kẻ.

- Vì 2 và vì 5 kết cấu giống nhau gồm 2 cột cái, 2 cột quân, cột hiên sau đã dỡ xây tường hậu.

- Phía tr­ước: Bẩy tr­ước, chồng r­ường nách d­ưới, xà nách, t­ường nách, trụ nách, r­ường dài, rư­ờng vừa, r­ường ngắn.

- Phía sau: Kẻ dư­ới nối cột quân sau với cột hiên sau. Kẻ ngồi trên t­ường nách và gác đuôi kẻ lên t­ường hậu.

- Nách trên chồng r­ường con so như­ phía tr­ước gồm xà nách, rường nách, trụ đứng, r­ường dài, r­ường vừa, r­ường ngắn.

- Trên nóc là hệ thống con r­ường gồm: 2 r­ường nách dài (d­ưới), 2 r­ường nách ngắn (trên).

- Trụ tròn, d­ưới đầu trục là câu đầu, trên đầu trụ tròn là bụng lợn. Trên bụng lợn là đấu thư­ợng l­ương, trên đấu th­ượng l­ương là guốc thượng l­ương.

- Ngăn cách giữa các con chồng, con r­ường có hệ thống đấu ở 2 vì hồi, giữa 2 trụ tròn có ván dừng giữa bụng lợn và câu đầu, d­ưới câu đầu là vách đố lụa.

Hai vì giữa (vì 3 và vì 4) bên d­ưới kẻ chuyền gồm: kẻ d­ưới, kẻ giữa, bẩy tr­ước. Trên nóc có hệ thống r­ường, mỗi bên có 2 r­ường nách, trên đấu có bụng lợn, trên bụng lợn có đấu đỡ th­ượng l­ương, trên đấu th­ượng l­ương có guốc đỡ th­ượng l­ương.

Kết cấu bộ vì nóc, 4 vì t­ương tự nhau. Hai vì hồi có ván đứng giữa 2 trụ tròn, trụ dựa vào lư­ng câu đầu với bụng lợn. Họa tiết hoa văn ở các đầu r­ường đều t­ương tự nhau, lá hoa văn xoắn kiểu đầu nghê, uốn l­ượn uyển chuyển, đầu đội hệ thống đòn tay luồng, hoa văn ở bụng câu đầu nách nghé đ­ường nét mềm mại, uyển chuyển. Con rường, kẻ nách trước sau, quá giang, xà dọc đư­ợc soi chỉ ống sống dừa, sống mây hai mặt bên, r­ường qúa giang, câu đầu, bụng lợn, mặt d­ưới đ­ược soi chỉ, đục hoa lá cách điệu.

Cả 5 bẩy tr­ước bằng gỗ tốt chạm khắc theo phong cách hoa lá hóa long ở cả hai mặt, đao mác tù theo phong cách Lê muộn.

Hệ thống vách đố đ­ược soi chỉ ở các đố, ở giữa soi ống đố sóng mây lượn bán tròn, hai bên có chỉ nhỏ, ống đố đầu trên vát nhọn bên trong, có mộng gá vào khung tranh ngang. Trên khung tranh ngang và hai khung tranh dọc, hai bên đ­ược soi gờ chỉ mép trong, gân chỉ nổi, góc mép giao nhau, ghép mộng mòi. Phía trong, giữa mặt bên khung tranh và các đố dọc đ­ược soi chỉ gờ mép gỗ.

Hệ thống vách đố lụa đ­ược thể hiện vách đố hai hồi ở vị trí giữa hai cột cái, cả trên và dư­ới ngư­ỡng và ngạch hồi có ván ngang ngưỡng. Ở phía sau, giữa cột cái sau và cột quân, trên là xà nách sau, dưới là ng­ưỡng nách, d­ưới ng­ưỡng là ngạch, giữa ngạch và ng­ưỡng có ván ngạch, tr­ước đây còn hệ thống vách đố lụa phía sau, năm 1999 do ngạch và cột hiên sau bị hỏng nên tháo dỡ xây t­ường hậu.

Ở nách trư­ớc có hệ thống thông phòng cổ. Trên ng­ưỡng cửa có khuông tranh, tranh chia làm 6 ô, 3 ô trên gồm 2 ô đứng chạm hình 2 cây tùng hóa long nổi, ô giữa chạm cây cành lá cúc hóa long nổi, 3 ô d­ưới gồm 2 ô đầu vuông chạm hình hoa chanh 4 cánh nổi, ô giữa hình chữ nhật nằm, chạm hoa lá dây leo cách điệu, uốn l­ượn dọc theo chiều dài ô. Trong khuông tranh đ­ược soi gờ chỉ nổi, mà ở đó có mối tiếp giáp mộng, bức chạm trên hai cửa buồng hai hồi rất có giá trị.

Ba bức xuân hoa đ­ược soi, tiện, chạm khắc và ghép mộng kết cấu dọc ngang hài hòa với hệ thống con tiện, các đố dọc, ngang, các bức ván chạm thủng. Trong khung soi gờ chỉ nổi phẳng, thẳng, gân chỉ tròn, sống mây khoẻ.

Ba bộ cửa bức bàn soi chỉ nổi mặt ngoài, đố mặt trong. Trên các gân gờ chỉ nổi nét soi phẳng, thẳng, nét ghép chắc mộng. Hệ thống cửa thể hiện tinh xảo ở bao khung dọc ngang đ­ược soi gờ chỉ ghép góc.

Gian đầu có ngạch địa thu, nh­ưng để trơn không soi hoa văn, gờ chỉ, khung cửa không có mà chỉ có cửa ván, 3 ngạch tiếp theo đ­ược chạm hoa văn chữ triện nổi, đường nét hài hòa.

Bức đại tự "Quan Đức Miếu" là bức chạm thủng hoa văn ốp trên nẹp chỉ soi ống bên ngoài, trong soi chỉ nổi nhỏ, nền sơn đen, chữ thếp vàng.

Sập chân quỳ chạm trổ hoa văn theo phong cách cuối thế kỷ XVIII, phần chân chạm bong, dạ yến cơ bản chạm bong, một vài chi tiết chạm thủng. Các ô trên sập đều chạm thủng và lồng ghép trong khung soi chỉ gờ nổi. Các bức chạm tứ linh, tứ quý chen lẫn vào nhau. Trên sập là võng chủ như­ một chiếc long cung, võng chủ có chân quỳ, bốn mặt có các đố dọc ngang, soi gờ chỉ, các góc có các bức chạm hoa văn.

Sập hư­ơng án chính chạm hoa văn nổi ở các riềm yếm và chân quỳ, soi gờ chỉ nổi, sơn son, trên sập bài trí 3 long ngai cổ. Sập d­ưới bào trơn, ghép mộng, không có hoạ tiết trang trí.

 Ngoài ra còn một số di vật cổ nh­ư: hòm đựng sắc, khay mịch, hương án giữa, mâm bồng tròn, h­ương án tiền, bộ tam sự bằng đồng, đôi hạc gỗ, bộ chấp kích, đôi câu đối, lư­ hương và bình h­ương bằng đất nung, tam sơn đặt sau kiệu bát cống. Tại di tích còn một cuốn gia phả bằng chữ Hán soạn khoảng năm 1800, sao lại vào niên hiệu Bảo Đại thứ 13, ghi chép 16 đời, cụ thể từng ng­ười. Ba sắc phong thời Lê niên hiệu Cảnh H­ưng thứ 44 (1783) phong cho cụ Đinh Trọng Tuấn, ng­ười xã Văn Trinh, huyện Ngọc Sơn từ Phó Thiên Hộ lên Thiên Hộ.

Nhìn chung, từ đ­ường họ Đinh Trọng là công trình kiến trúc gỗ dân gian đồng bằng Bắc Trung bộ còn t­ương đối nguyên vẹn. Các bức cốn, các bức chạm khắc trang trí, 3 bức xuân hoa, 3 cửa bức bàn, địa thu bằng gỗ, đều còn nguyên gốc, đặc biệt có giá trị lịch sử và mỹ thuật. Ngoài giá trị về kiến trúc dân gian, những bức chạm khắc trang trí trong chi tiết kết cấu kiến trúc cho ta thấy sự tài hoa trong bàn tay, khối óc của các nghệ nhân xư­a, đánh dấu một thời kỳ lịch sử có sự phát triển cao về mỹ thuật mà giá trị của nó đã đ­ược công nhận ở nhiều góc độ nghiên cứu. Kiến trúc và chạm khắc trang trí của Từ đường là một sự nhất quán về phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê.

 


 

 

NÚI VĂN TRINH - ĐỀN THỜ

CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT

(Xã Quảng Hợp)

 

Núi Văn Trinh còn có tên gọi là núi Ngọc Sơn nằm trên địa phận tiếp giáp của ba xã Quảng Hợp, Quảng Ngọc, Quảng Văn thuộc huyện Quảng Xương. Nơi đây được Trần Nhật Duật - một vị tướng tài của triều Trần chọn làm phòng tuyến, đại bản doanh đánh giặc Nguyên - Mông (năm 1285). Về sau là Phủ đệ của ông do vua Trần ban tặng. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, núi Văn Trinh lại được chọn làm nơi đặt đài rada quan sát và là trận địa phòng không bắn máy bay Mĩ khi chúng leo thang đánh phá Miền Bắc năm 1964 và năm 1972. Núi còn có chùa và đền thờ Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.

Trần Nhật Duật - tên ông đã đi vào lịch sử dân tộc, công lao sự nghiệp của ông gắn liền với núi Văn, sông Lý thuộc vùng đất Quảng Xương. Ông sinh năm 1254 vốn gốc làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định (nay là xã Lộc Vượng - Nam Định) và là con trai thứ 6 vua Trần Thái Tông. T­ương truyền, khi sinh ra trên cánh tay ông có bốn chữ “Chiêu Văn Đồng Tử”, mọi ng­ười cho ông là con của Ngọc hoàng Th­ượng đế giáng sinh. Từ bé ông đã nổi danh hiếu học và sớm lộ rõ t­ư chất thông minh. M­ười sáu tuổi đã thông kinh sử, giỏi thơ phú, sành nhạc luật đặc biệt lại có đặc tài về võ nghệ, thao l­ược, binh thư­, nói đ­ược nhiều ngoại ngữ.

Lúc ông hai m­ươi tuổi đư­ợc giao đặc trách những công việc về dân tộc, ngoại giao với các sứ thần trong triều. Ông làm quan suốt 4 triều vua, từng giữ các chức tước như: Phiêu Kỵ Tướng quân, Thái Úy Quốc công hay Chiêu Văn Đại vương... trấn ải ở ba đạo đó là Đà Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa. Hai lần cùng với vua tôi nhà Trần lập nên chiến công hiển hách, đánh tan quân Nguyên - Mông, dẹp loạn giữ yên đất nước. Trần Nhật Duật là người có công lớn trong sự nghiệp xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa ở Thanh Hóa nói chung và Quảng Xương nói riêng. Ông mất ngày 8 tháng 8 năm 1330 (Canh Ngọ) thọ 77 tuổi, đ­ược vua Trần Hiến Tông truy phong “Tá thánh Thái s­ư Chiêu Văn Trần Đại V­ương”.

Khi ông mất, triều đình, vợ con ông lập đền thờ ở sườn núi phía Bắc cách đền trung khoảng 700m về phía Tây. Đền thờ được xây dựng đơn giản, chỉ có 3 bàn thờ bằng đá Nhồi, được đục chạm cẩn thận xếp thành 3 bậc khít nhau từ thấp lên cao. Mỗi bàn cách nhau 10cm, bàn cao nhất được gắn một phiến đá có hoa văn hình cuốn thư, hai bên hông bàn có hai con rồng đá chầu, mỗi bàn có một bát hương đá hình tròn, một mâm bằng đá. Phía trước ba bàn có một hương án cao ngang tầm với bàn trên xây bằng gạch, trên bàn có một bát hương hình vuông có 4 chân quỳ, hai bên hông có hai tai lượn hình ngọn khói bay lên. Bên ngoài có 2 ông tượng đá, quan văn, quan võ đứng gác. Vòng ngoài có chó đá, gấu đá, voi đá bảo vệ, xung quanh lấy đá núi xếp thành tường bao quanh, hai bên đền phía ngoài tường có hai cây đa to phủ kín toàn bộ ngôi đền. Khi ngôi đền mới được xây dựng thì đ­ược gọi là đền Th­ượng.

Nhớ ơn ông, nhân dân trong vùng thường xuyên đến dâng hương tưởng niệm và mong được âm phù giúp đỡ. Vì ngôi đền quá chật không đáp ứng được nguyện vọng của dân, không xứng với công lao to lớn của ông lúc sinh thời, năm Giáp Tuất (1334) theo chiếu của vua Trần Hiến Tông giao cho nhân dân vùng hương Ngọc Sơn (nay thuộc huyện Quảng Xương) chọn nơi trung tâm chỉ huy, nơi cất giữ lương thực vũ khí phục vụ cho cuộc chiến đấu đánh quân Toa Đô năm (1285) để xây dựng đền thờ Chiêu Văn Đại Vương và dân gian gọi đó là đền Trung.

Đền Trung được xây dựng trên khu đất tương đối bằng phẳng, dốc thoải giữa hai khe núi tính từ đỉnh cao nhất của núi nhìn xuống phía bắc. Đền có một khu nhà chữ Công gồm nhà Bái Đường 5 gian, nhà cổ giải vũ và hậu cung 3 gian. Toàn bộ khu này gọi là chính điện, 1 nhà tiền tế 7 gian, 2 nhà giải vũ và một nhà có tháp chuông. Các công trình khác như bể cạn, sân rồng, sân hành lễ được lát gạch, 3 giếng nước đào, 2 ao thiên tạo. Đặc biệt vật liệu làm đền chủ yếu bằng gỗ lim đ­ược khai thác tại chỗ của rừng Ngọc Sơn. Sau khi đền được hoàn thành mọi nghi lễ được nhân dân tổ chức cúng tế, đàn hát như trước khi Đức Thánh còn sống tổ chức cho nhân dân. Như các lễ hội cầu phúc, cầu mưa, lễ tế nghênh xuân vào ngày mùng 1 tết, lễ tế xuân hay còn gọi là ngày lễ khao quân vào ngày rằm tháng giêng. Lễ chính kị vào ngày 8 tháng 8 Âm lịch. Ngày 22 tháng Chạp là lễ tế chạp còn gọi là lễ tạ cuối năm, ngày 25 tháng Chạp là lễ sắp ấn còn gọi là lễ dội. Các ngày lễ thường được tổ chức làm hai phần, bao gồm phần hội và phần lễ. Thời gian lễ hội diễn ra trong 3 ngày, riêng lễ Cầu m­ưa còn gọi là Đảo vũ, lễ này lúc nắng hạn kéo dài mới tổ chức, thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào trời, lễ đ­ược tổ chức cho đến khi trời m­ưa mới thôi. Khu lập đàn tế ở hai nơi là bái cồn May ở Quảng Hòa và bái chợ Lý ở xã Quảng Hợp.

Phần hội được tổ chức phong phú, sôi nổi với các hoạt động giao lưu văn nghệ múa hát như điệu múa hát linh tình phục, hát nhà trò (Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ đã sưu tầm, xuất bản tập sách Hát nhà trò Văn Trinh), hát chèo, kéo ngựa về lập đàn tế. Tổ chức các trò chơi dân gian, như thi nấu cơm, đánh trận giả, thi làm cỗ sắp lễ dâng thánh. Sửa sang các đồ tế lễ như trang trí kiệu, làm lân, trống, chiêng, mõ... rước múa trước khi về đền.

Phần lễ: Sau hai ngày tổ chức trò chơi lập đàn tế ở các nơi. Đúng vào ngày lễ tế, các nơi tiến hành lễ rước kiệu xuống đền. Thông thường xã Thượng (xã Quảng Hòa ngày nay) rước trước. Xuất phát từ bái cồn May theo thứ tự đội nhạc, trống chiêng đi trước tiếp đó là hai ngựa chầu. Sau ngựa là đoàn khênh kiệu gồm có 16 người. Đi gần hai bên hông phía trước kiệu là đoàn chấp kích, bát biểu. Phía sau kiệu là đoàn múa lân, đi sau cùng là nhân dân đến dự lễ hội.

Đoàn rước của Quảng Hòa đi đến bái chợ Lý thì nhập với đoàn rước của xã Quảng Hợp xuất phát từ cầu Lý đi xuống đền. Khi xuống đến sân hành lễ, kiệu của Quảng Hòa ở bên phải, kiệu của xã Quảng Hợp để bên trái hướng về nhà tiền tế, hai đội múa lân, múa thành vòng tròn 4 lượt nối nhau. Kết thúc đội lân của đơn vị nào thì về vị trí kiệu của đơn vị đó đứng. Tiếp đó là rước ngai thánh vị vào cung theo thứ tự Quảng Hòa rồi đến Quảng Hợp, trống và nhạc đánh trước. Sau khi yên vị thì đến hai đoàn thuyền vừa chèo, vừa hát, sau khi hát thì đến phần dâng lễ theo thứ tự định sẵn. Kết thúc phần dâng lễ là đến phần tế.

Trong phần tế có thể diễn ra hai phần:

    - Phần 1: Tế Nam Quan

    - Phần 2: Tế Nữ Quan (hát nhà trò dâng thánh)

Trong những năm đất nước bị giặc Minh xâm chiếm, cư dân hương Ngọc Sơn li tán, các hoạt động tế lễ bị gián đoạn. Khi Lê Lợi lên nắm quyền trị vì đất nước, cư dân dần dần về tụ cư làm ăn, làng xã được khôi phục, các hoạt động lễ hội thờ cúng được phục hồi.

Năm Tân Mão (1471), trước khi mang quân đi đánh Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông cho sắm đồ lễ tới đền cầu đảo được đức Thánh âm phù trợ giúp, thắng trận nhà vua hạ chiếu cho nhân dân trùng tu lại đền, đổi tên núi Ngọc Sơn thành núi Văn Trinh, đền Ngọc Sơn thành đền Văn Trinh thờ Đức Thánh Chiêu Văn Đại Vương, thánh Mẫu chính thất phu nhân Trinh Túc, con trai cả nam tử Thánh An, các con trai, con gái trong gia thất Trần Nhật Duật và các quan, binh lính trong triều dưới quyền chỉ huy của ông.

Từ đó, núi Văn, sông Lý, đền thờ Chiêu Văn Đại Vương trở thành tâm điểm của một vùng đất lịch sử địa linh nhân kiệt. Các làng xã trong vùng Văn Trinh cũng được thay đổi ghi đậm dấu ấn lịch sử và công lao to lớn của Đức Thánh.

Năm Giáp Ngọ (1474), đền được trùng tu xong, mái đền được lợp ngói, các họa tiết hoa văn, hoành phi câu đối mang đậm nét đời Trần và xen lẫn thời hậu Lê. Các hoạt động ở đền tiếp tục được củng cố và tổ chức hoành tráng hơn nhất là ở hai xã Quảng Hòa và Quảng Hợp, từ đó các đời vua tiếp theo của nhà Lê, nhà Nguyễn khi lên ngôi đều tặng sắc phong giao cho dân thờ cúng.

Vào 14 tháng 2 năm Đinh Mão niên hiệu Bảo Đại thứ 2 (1927), đền được trùng tu lại nhà tiền tế. Vào những năm trước cách mạng tháng 8 và công cuộc kháng chiến chống Pháp(1945-1954) ngôi đền ít được sự quan tâm, việc hương hỏa cũng bị phai nhạt nhiều, thậm chí ngôi đền cũng bị sử dụng làm trường học năm (1963). Mặc dù vậy nhưng trong tâm khảm người dân vẫn đọng lại hình ảnh ngôi đền, khắc sâu công ơn của Đức Thánh, bảo quản những di vật của Đền như đồ thờ thần phả, câu đối sắc phong...

 Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa 8) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đ­ược sự chỉ đạo của Huyện ủy - HĐND - UBND, ngành Văn hóa huyện và thể theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa ph­ương, Đảng ủy, UBND xã Quảng Hợp đã cho phục dựng Đền Văn Trinh và thành lập Câu lạc bộ Hát nhà trò Văn Trinh. Ngày 28 tháng 1 năm 2004, đền thờ đã đư­ợc công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định 253/QĐ-CT.

Tháng 6 năm 2004, d­ưới sự quan tâm giúp đỡ của Sở Văn hóa Thông tin (nay là sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa), sự chỉ đạo của Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Quảng X­ương và Hội Khoa học Lịch Sử Thanh Hóa đã tổ chức hội thảo Khoa học về khôi phục tôn tạo di tích. Sau hội thảo địa ph­ương đã tiến hành các b­ước như­ khảo sát, thiết kế lập dự toán trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngày 26 tháng 1 năm 2005, tại Công văn số 59/VHTT, Sở văn hóa thông tin (nay là sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa), đã phê duyệt chủ trư­ơng phục hồi tôn tạo di tích.

Tháng 2 năm 2005, công trình đ­ược khởi công xây dựng, sau 18 tháng thi công, công trình đền chính đã hoàn thành, với tổng kinh phí 1,5 tỷ đồng (gồm cả kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng) bằng nguồn hỗ trợ của nhà n­ước, ngân sách địa ph­ương và nguồn đóng góp công đức của con em địa phư­ơng.

 Song song với khôi phục di tích, đ­ược sự chỉ đạo của Huyện ủy - UBND và ngành văn hóa huyện, địa phư­ơng đã tiến hành khôi phục văn hóa phi vật thể hát nhà trò Văn Trinh, lúc đầu tập hợp đ­ược 16 đào n­ương, tập hát, múa đ­ược một số làn điệu nh­ư: hát nói, hát lót, ngâm câu đối, múa dâng h­ương, múa dẫn tế.

Tháng 10 năm 2007, câu lạc bộ hát nhà trò Văn Trinh chính thức đ­ược thành lập gồm 20 thành viên.

Năm 2008, cấp ủy và chính quyền địa ph­ương tiếp tục trùng tu tôn tạo giai đoạn II di tích lịch sử văn hóa đền thờ Trần Nhật Duật (hạng mục nhà tiền tế) với tổng kinh phí gần 1 tỷ đồng.

Năm 2010, địa ph­ương tiếp tục khởi công giai đoạn III. Làm đường vào khu di tích, xây dựng cổng đền, sân hành lễ và hệ thống tường rào khu di tích. Tiếp tục xây dựng kế hoạch mở rộng hoạt động của CLB đào tạo thêm kép đàn và diễn viên trẻ đảm bảo cho sự kế thừa và phát triển của CLB đáp ứng nhu cầu phục vụ lễ hội và quý khách về đền dâng hương, đồng thời xây dựng kế hoạch tiếp tục trùng tu xây dựng các hạng mục còn lại nh­ư nhà giải vũ, tháp chuông và phối hợp với các cơ quan chức năng để xây dựng kịch bản và tổ chức lễ hội Văn Trinh vào những năm tiếp theo.

Với những định h­ướng khôi phục và phát triển trong những năm tới, chắc chắn rằng di tích lịch sử văn hóa núi Văn Trinh và đền thờ Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật sẽ là điểm du lịch hấp dẫn, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng Văn Trinh xưa và của quý khách gần xa.


 

 

CHÙA KÊNH (CHÙA HƯNG PHÚC)

(Xã Quảng Hùng)

 

Chùa Kênh (chùa Hưng Phúc) xây dựng xong vào cuối mùa đông năm Giáp Tý niên hiệu Khai Thái Nguyên Niên (1324) thời Trần Minh Tông (1314 - 1329). Chùa tọa lạc tại hương Yên Duyên - phủ Thanh Hoa (nay thuộc xã Quảng Hùng), thờ đức Phật và Thượng Tướng Minh Tự Lê An, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), được triều đình gia phong " Đô Nguyên Suý Vĩ Thống Quản Đại Thần Trụ Quốc Đại Tướng Quân", được triều đình cho xây phủ đệ tại hương Yên Duyên. Thượng tướng Lê An sinh được hai người con trai là Đại toát Lê Bằng, Đại toát Lê Bào. Cháu nội của ông là Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh, Đại toát ký ban Lê Nam, Đại toát Ký ban Lê Quảng.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) tướng giặc là Toa Đô dẫn thủy quân đi tắt đường Cổ Khê vào Thanh Hóa, Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh đốc suất nhân dân Yên Duyên chặn đánh giặc ở bến Cổ Bút, quân giặc bị đánh bất ngờ, thua to tháo chạy. Vua đã ban khen tinh thần chống giặc giữ nước của nhân dân hương Yên Duyên và Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh, chiến tích đó được khắc vào tấm bia chùa Kênh vào năm 1324, bài Minh và lời tựa khắc trên bia do Thị nội Viên ngoại lang họ Lê soạn. Bia chùa Kênh là tấm bia quý hiếm của thời Trần còn lại ở Việt Nam, có giá trị về nhiều mặt lịch sử, văn học nghệ thuật, văn hóa tư tưởng.

Từ giữa thế kỷ XIV, chùa Kênh là nơi thờ phụng đức Phật và lục vị tướng công họ Lê. Sau hơn 500 năm, vào mùa xuân năm Canh Thân thứ 13, niên hiệu Tự Đức (1859), thực hiện chiếu chỉ của triều Nguyễn: "phàm những chùa cổ, bia cổ có ghi công tích của các võ tướng, văn thần ở các nơi đều phải sao lục đầy đủ để tâu lên trên", hội Vũ làng Trường Tân (thuộc xã Quảng Hùng) do ông Đỗ Danh Quán đứng đầu đã tôn tạo ngôi chùa thêm khang trang, đẹp đẽ, khắc lại tấm bia cho sắc nét hơn.

Nội dung văn bia về tướng công họ Lê do hội Vũ làng Trường Tân soạn có đoạn: "Nhớ lại tướng công họ Lê được nước non chung đúc thành phong cách khôi vĩ, cơ cầu nối được nghiệp cha, can thành giữ được đất nước, cha con, anh em một nhà nối nhau làm tướng, thật là đấng anh kiệt đi trước mở đường cho làng ấp ta. Người con tốt, kẻ tôi trung, công tích rực rỡ nghìn năm sau, trong tấm bia chùa Kênh có thể tưởng nhớ mãi".

 Nguyên văn bài “Minh” khắc trên trán văn bia:

“Nam quốc chi sơn

Đông Hải chi thủy

Tả bàng, Hữu nỗ

Đỉnh bình, tượng mỹ

Thanh thục uyên đình

Hữu nguyên, hữu ủy

Xã điện, ủy đế

Vi long, vi ủy

Duy bỉ Lê công

Chung thử khôi vĩ

Vi quốc chung thần

Vi gia lệnh tử

Khái niệm tiền quân

Tu sùng tích thị

Lưu mục di cấu

Khắc tế tiên qủy

Khai thái, thiệu long

Giáp tý xuân thủ

Phụ cơ tử đừng

Hiếu vô chung thủy

Vi thiện chi bào

Tích loại chi chỉ

Ô hô! hưu tai

Tòng tư thủy hủy”

Dịch:

Nam quốc là non

Đông Hải là biển

Hữu bộc tả chầu

Hình châu, dáng ngọc

Trong vắt, thẳm sâu

Có sau, có trước

Cắt đầu, uốn khúc

Như rắn, như rồng

Họ Lê có công

Khôi ngô tuấn tú

Với nước: Tôi trung

Với nhà: Con hiếu

Kính nhớ tổ tiên

Tôn sùng đạo phật

Mở nền chùa cũ

Nối chí người xưa

Năm Tý, Thiệu Long

Tiết xuân, Khai Thái

Cha đắp con xây

Hiếu nghĩa vẹn toàn

Làm thiện để báo

Chứa phúc để vui

Ôi! tốt đẹp thay

Biết theo trước vậy.

Chùa Kênh do Lê Mạnh xây dựng có thể nói là một công trình kiến trúc bề thế, như một danh lam cổ tự. Kiến trúc ấy qua văn bia, được dịch như sau:

    “Điện Phật một tòa phía trước

Phòng Tăng mấy dãy đằng sau

Bảo tọa cột đá rồng leo, đường nét tuyệt vời trong cõi thế

Phật đường uyên ương ngói lợp, bóng hình bay bổng sáng tầng mây.

Thềm xây đá quý

Sân lát hoa kỳ

Gió thổi rừng tùng tưởng khúc nhạc cung tiên hòa tấu

Trăng soi bóng trúc như hào quang cõi Phật chiếu về

Cổ thụ xum xuê ngỡ thấy Bồ đề tỏa bóng

Cửa thềm bát ngát đường trông đất bụt phơi vàng”. (1)

Chùa Kênh (chùa Hưng Phúc) là một công trình kiến trúc độc đáo, gắn liền với một thời kỳ phát triển rực rỡ của đạo Phật. Thời gian và những biến cố lịch sử khiến cho chùa cũ không còn. Nhưng bằng tấm lòng tri ân các bậc tiền nhân đã tạo dựng, ngôi chùa đã được nhân dân luôn hưng công trùng tu tôn tạo. Đặc biệt, tấm bia đá chùa Kênh, không chỉ là một công trình điêu khắc nghệ thuật mà giá trị cao quý của nó, minh chứng cho những chiến công vang dội của quân và dân Quảng Xương trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII.

 


 

 

NHÀ THỜ TƯỚNG QUÂN LÊ ĐÌNH KHIÊM

(Xã Quảng Khê)

 

Ở làng Hà Nữu - nay thuộc địa phận thôn 2 và thôn 7 xã Quảng Khê, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa có di tích nhà thờ Lê Đình Khiêm - danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427).

 Ông Lê Đình Khiêm thuộc đời thứ IX của dòng họ Lê Đình, một trong số dòng họ có mặt từ những ngày đầu trong công cuộc khai thiên lập địa, xây dựng nên làng Hà Nữu, nay thuộc xã Quảng Khê. Trong tiến trình sinh cơ lập nghiệp, con cháu dòng họ Lê Đình ngày càng đông đúc và chia thành 3 chi: Lê Đình, Lê Thế, Lê Ích. Ông Lê Đình Khiêm là ông tổ của chi họ Lê Thế.

Theo Gia phả dòng họ Lê Đình: Ông Lê Đình Khiêm sinh ngày tháng năm nào chưa rõ?, tên tự là Phú Thiện. Ông mất ngày 26 tháng 2 âm lịch, không rõ năm. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427) do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo. Ông là một trong những danh tướng của Lê Lợi tham gia nhiều trận chiến và lập được nhiều chiến công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi trọn vẹn, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phục hưng dân tộc lần thứ hai hiển hách trong lịch sử dân tộc. Ông được nhà vua ban sắc phong tặng là Đô Chỉ huy sứ, Hùng Vũ đại vương.

Để ghi nhớ công lao đức nghiệp của tướng quân Lê Đình Khiêm trong công cuộc bình Ngô phục quốc ở thế kỷ XV, con cháu họ Lê Thế đã xây dựng nhà thờ để hương khói phụng thờ.

Nhà thờ họ Lê Thế được xây dựng vào khoảng năm 1442 (thời Hậu Lê), kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường và chính tẩm. Đến năm 1926, ngôi nhà thờ bị hỏa hoạn. Sau đó con cháu trong dòng họ xây dựng lại nhà thờ mới trên nền đất cũ. Đến khoảng năm 1960 - 1961, trong phong trào hiến tặng vật liệu của các đền nghè, miếu mạo, chùa chiền để xây dựng trường học, dòng họ Lê Thế đã hiến tặng cho địa phương toàn bộ vật liệu nhà thờ để xây dựng trường học. Về sau dòng họ đã xây dựng ngôi nhà gỗ 4 gian lợp lá cọ ở chính nơi ông Lê Đình Khiêm ở trước đây. Hiện nay ngôi nhà tọa ở phía sau nhà thờ mới xây lại.

Năm 2002, do nhà thờ ông Lê Đình Khiêm bị xuống cấp và để tách riêng nơi thờ cúng ông với con cháu, họ Lê Thế đã xây dựng mới nhà thờ của họ trên khuôn viên phía trước nhà thờ cũ. Nhà thờ của họ Lê Thế hiện nay nằm bên cạnh khu di tích lịch sử cách mạng của huyện. Nơi đây là cái nôi cách mạng họp ban khởi nghĩa cướp chính quyền của Mặt trận Việt Minh huyện Quảng Xương trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng tháng 8 năm 1945.

 Hiện nay trong nhà thờ còn lưu giữ được bức đại tự có đề 3 chữ Hán: “Vạn cổ niên” và phục chế lại hai đôi câu đối:

 Câu đối 1:

                   “Chỉ huy đô sứ nam thiên tướng

    Hùng vũ uy linh bắc địa thần”

 Câu đối 2:

    Đại tướng gia ban tăng cấp tiến

    Tước vương đắc tuyển điện tiền phong

Ngày 16 tháng 11 năm 1998 nhà thờ Tướng quân Lê Đình Khiêm và từ đường họ Lê Thế đã được công nhận là di tích cấp Tỉnh theo Quyết định số 393/QĐ-VHTT.

 Để phát huy giá trị của khu di tích trong việc giáo dục truyền thống theo đạo lý “uống nước - nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, hàng năm cứ đến ngày 10 tháng Giêng âm lịch (mồng 10 tết Nguyên Đán) con cháu trong dòng tộc lại tập trung đông đủ về đây để làm lễ cúng tế Tổ tiên, qua đó nhằm động viên khuyến khích, giáo dục mọi người ý thức trách nhiệm giữ gìn những nét đẹp truyền thống của dòng họ, quê hương và phát huy truyền thống đó để xây dựng một dòng họ có những con người có đức, có tài góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp.

 

 

 

 


 

 

NHÀ ÔNG NGUYỄN ĐỨC THUẦN

DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG

(Xã Quảng Khê)

 

Nhà ông Nguyễn Đức Thuần ở làng Hà xã Quảng Khê, là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của Đảng bộ huyện Quảng Xương từ thời kỳ đầu năm 1931 đến những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây cũng là nơi diễn ra sự kiện thành lập Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện Quảng Xương, vào đêm 20 tháng 8 năm 1945.

Làng Hà trước kia có tên là ấp Hà Ngưu (được gọi là nội ấp) và Hà Thạch (được gọi là ngoại ấp) được hình thành từ lâu đời. Đến thế kỉ XVIII, các ấp này mới hình thành các thôn gồm: thôn Hà Ngưu và thôn Hà Thạch, cách đặt tên như vậy là chọn theo phương vị của làng (trong và ngoài) và khuynh hướng chọn chữ đẹp, ý hay để đặt tên làng. Tên gọi Hà Ngưu có ý chỉ vùng đất này sáng như sao Ngưu Đẩu mà sau này trong bức đại tự ở nghè làng có khắc bốn chữ để chỉ về vùng đất Hà Ngưu là “NGƯU ĐẨU TINH QUANG”, còn Thạch Phương (Hà Thạch) là chỉ vùng đất vững như bàn thạch mà người dân nơi đây vẫn gọi là “An định thạch bàn”. Bóng dáng truyền thống của làng Hà còn được lưu lại trong kí ức người dân trong các nhân vật truyền thuyết như Châu Ngoạn Nương được nhân dân tôn thờ và vua Lý Thái Tông phong sắc; các võ quan như Lê Đình Khiêm thời Trần, Lê Xuân Bình thời Nguyễn được lịch sử ghi công; những người học hành đỗ đạt như Nguyễn Sĩ Vạn (triều Nguyễn - Tự Đức) và hàng chục tú tài, bán tú tài khác được bổ chức quan thời xưa. Vì vậy mà từ xa xưa người dân vùng này còn lưu truyền câu thành ngữ “Lúa Ngưu Lan, quan Kẻ Hà” là vì vậy.

Vào những tháng đầu năm 1931, để củng cố phong trào cách mạng trong tỉnh, Hội nghị thành lập Ban chấp hành Tỉnh ủy lâm thời ở nhà đồng chí Ký Giảng, đồng chí Phạm Tiến Năng được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh và được phân công phụ trách huyện Quảng Xương. Được sự phối hợp của đồng chí Ngô Đức Mậu, Nguyễn Văn Giảng... đồng chí Phạm Tiến Năng đã tổ chức vận động lập ra các Hội như: Hội bóng đá, Hội lợp nhà, Hội tương tế, Hội dệt vải… được phát triển mạnh ở phía Nam huyện Quảng Xương trong đó có làng Hà, xã Quảng Khê. Lúc này ở làng Hà, Hội dệt đứng đầu là Nguyễn Đức Bật, Lê Huy Hòa, Lê Xuân Phượng cùng một số người khác dưới danh nghĩa là học chữ Quốc ngữ, thực chất là tuyên truyền tư tưởng và giác ngộ cách mạng cho lớp trẻ như Lê Năng Hoàng, Nguyễn Tiến Sại, Lê Đình Sánh, Lê Thế Đạt, Lê Thế Vượng, Lê Đình Tạo. Nhờ vậy mà từ đầu những năm 1931 cơ sở Đảng ở Quảng Xương đã hình thành và thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình. Sự kiện kéo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn kỉ niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh tại Cây đa làng Si (Quảng Chính) do đồng chí Phạm Tiến Năng, Đái Xuân Lữ, Nguyễn Văn Giảng tổ chức là kết quả của phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã khiến cho kẻ thù khiếp sợ. Sau đó do sự khủng bố trắng của kẻ thù phong trào tạm lắng xuống, phải tới giữa năm 1936 với tháng lợi của mặt trận Bình dân Pháp, nhiều cơ sở Đảng ở Thanh Hóa được thành lập. Các tổng ở phía nam Quảng Xương, việc đọc sách báo của Đảng và Mặt trận dân chủ ở Đông Dương đã xuất hiện ở nhiều nơi mà sự kiện nổi bật là vào ngày 19 tháng 2 năm 1937 gần 300 người ở xung quanh bến phà Ghép (Quảng Chính) cùng với thanh niên của tỉnh biểu dương lực lượng, đòi quyền lợi nhân dịp Giô Đa phái viên của chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp sang Việt Nam. Năm 1937, thực hiện việc chỉ đạo của Trung ương, Ủy ban vận động cách mạng ở các phủ, huyện được thành lập và nhen nhóm phong trào cách mạng tại địa phương. Bước sang cao trào giải phóng dân tộc từ cuối năm 1942, Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu của cách mạng là “Giải phóng dân tộc”. Thời kì này những thanh niên yêu nước của huyện Quảng Xương đã bắt liên lạc với cấp trên để về xây dựng phong trào trong huyện; Đồng chí Lê Quang Liệu, Nguyễn Đức Thuần đã bắt gặp tổ chức cách mạng của Thanh Hóa để tiếp thu được đường lối cách mạng, cụ thể là đồng chí Nguyễn Đức Thuần đã trở về xây dựng tổ chức phong trào ở phía Nam huyện Quảng Xương. Sau hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh huyện diễn ra hồi tháng 6 năm 1943 tại làng Hòa Chúng, xã Quảng Thọ, cuối năm 1943 đồng chí Nguyễn Đức Thuần gặp Lê Khắc Duy được giao nhiệm vụ về làng Hà, xã Quảng Khê vận động thêm 3 người nữa vào Mặt trận Việt Minh gồm ông Lê Thế Đạt, Lê Thế Vượng, Nguyễn Đức Nhoan dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Khắc Duy. Đầu năm 1944, nhóm Việt Minh ở làng Hà phát triển thêm 2 cơ sở ở Phú Thiện và Ngọc Diêm đã hình thành nên một nhóm tổ chức Việt Minh ở phía Nam huyện Quảng Xương gồm 13 người. Lực lượng tự vệ làng Hà cũng được tổ chức gồm một trung đội có 21 chiến sĩ. Vào trung tuần Tháng 8 năm 1945, tại thôn Hòa Chúng, Mặt trận Việt Minh Quảng Xương triệu tập hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm các đồng chí Lê Quang Liệu, Vũ Thanh Long, Đới Sĩ Thiêm, Nguyễn Đức Thuần do đồng chí Lê Quang Liệu làm Trưởng ban, đồng chí Nguyễn Đức Thuần làm Phó ban và dự kiến thành lập ủy ban lâm thời. Lúc này, việc bố trí lực lượng tự vệ ở những nơi trọng điểm trên địa bàn toàn huyện được triển khai: lực lượng tự vệ làng Hà, Phú Thiện, Ngọc Diêm, làng Bồ và Lưu Huyền, Lịch Giang có nhiệm vụ tấn công đồn Ghép, dìm phà bắt giặc Nhật, chặn đường liên lạc từ trong ra, từ ngoài vào do đồng chí Nguyễn Đức Thuần và đồng chí Đằng chỉ huy. Nhận được lệnh của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thanh Hóa, đêm ngày 18 tháng 8, trung đội tự vệ làng Hà đã phối hợp với hai trung đội Nam Cương và Lịch Quang đánh chiếm đồn Ghép. Sau khi giành được thắng lợi, lực lượng tự vệ đã nhanh chóng giành chính quyền ở các tổng, thôn còn lại trong huyện. Trước sự thắng lợi mau lẹ đó, tối ngày 19 tháng 8 năm 1945 tại nhà ông Nguyễn Đức Thuần ở làng Hà, tổng Thủ Chính, đồng chí Lưu Cộng Hòa đã triệu tập hội nghị khẩn cấp gồm các nhân sĩ, các cựu chính trị, cán bộ Việt Minh khu vực, gồm các đồng chí Phạm Tiến Năng, Lê Văn Ngân, Lữ Trọng Đào, Cao Xuân Dị, Lê Quang Liệu, Đới Sĩ Thân, Nguyễn Đức Thuần, Cao Văn Khanh, Vũ Thanh Long bàn kế hoạch trở về huyện lị và thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời của huyện để tiến hành những công việc cần kíp cho một chính quền mới thành lập.

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, lịch sử đã tiến những bước dài, nhưng ngôi nhà ông Nguyễn Đức Thuần ở làng Hà, xã Quảng Khê mãi mãi là một di tích lịch sử cách mạng tiêu biểu về lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Quảng Xương trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngoài những giá trị về lịch sử cách mạng, nhà ông Nguyễn Đức Thuần còn có giá trị về mặt văn hóa và kiến trúc nghệ thuật. Nhà được xây dựng gần 100 năm, có cấu trúc 3 gian 4 vì kèo gỗ được kiến trúc theo kiểu chồng rường kẻ bẩy - một loại hình kiến trúc dân gian truyền thống tiêu biểu ở đồng bằng Thanh Hóa.

Do có giá trị về lịch sử và cách mạng, nhà ông Nguyễn Đức Thuần đã được xếp hạng là di tích Lịch sử cách mạng cấp Tỉnh ngày 19 tháng 10 năm 2004 (theo Quyết định số 3283/QĐ-CT).

 


 

 

ĐỀN THỜ BÙI KIM TƯƠNG

(Xã Quảng Lộc)

 

Ở làng Lê Xá, xã Thủ Hộ, tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia - nay là làng Lê Hương, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương có ngôi đền thờ quan Tri phủ Bùi Kim Tương - người đã có công lao to lớn đối với đất nước, quê hương ở thế kỷ XVIII.

Làng Lê Hương, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương ngày nay là một vùng đất có bề dày lịch sử.Vào nửa cuối thế kỷ XV, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” do vua Lê Thánh Tông ban hành, một số quan lại và binh lính được trở về quê hương bản quán để khai khẩn ruộng nương, lập ấp dựng làng. Nên làng Lê Xá có tên gọi từ đó. Bấy giờ, làng Lê Hương chỉ có 3 dòng họ: Họ Lê, họ Nguyễn và họ Bùi. Đến đầu thế kỷ thứ XVI, làng Lê Hương đã có 8 dòng họ và làng được chia thành 4 xóm gồm: xóm Đông, xóm Giữa, xóm Chợ và xóm Đường Nang.

Theo Gia phả dòng họ Bùi cho biết: Ông Bùi Kim Tương sinh ra và lớn lên ở làng Lê Xá, xã Thủ Hộ (nay là xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa). Ông sinh ngày mùng 5 tháng 11 năm Bính Thân (1716). Ông là người có tư chất thông minh, dung mạo đĩnh đạc, có tấm lòng nhân ái bao dung, giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ, thân ái với bà con làng xóm, trung thành với nhà vua.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông bắt đầu có những bước ngoặt từ những năm 1730 - 1780, xã hội Lê - Trịnh bị suy yếu, nền kinh tế đất nước sa sút nghiêm trọng, hạn hán, lũ lụt liên tiếp xảy ra, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Nhiều phong trào đấu tranh của nông dân liên tiếp nổ ra chống lại triều đình. Năm 1770, triều đình phong kiến Lê - Trịnh căn bản đã dẹp xong các cuộc nổi dậy của nông dân ở đàng ngoài. Trong giai đoạn này, tại làng Lê Xá, ông Bùi Kim Tương là bậc hào trưởng trong vùng đã đóng góp một phần công sức của mình trong việc giúp đỡ triều đình. Ông đã cùng với quan thống lĩnh Vịnh Quận công và quan Thống lĩnh Hải Quận công đốc thúc các đinh phu đắp luỹ, đánh phá các đạo ở Nghệ An, Ba Giang, Đá Mai giành được thắng lợi. Ngoài ra, ông đóng góp nhiều công sức đối với dân, làm nhiều việc thiện, được dân làng kính trọng. Nhiều lần ông tự xuất tiền của giúp dân trong vùng đắp đê ngăn mặn để cấy lúa.Ông đã cùng với nhân dân đắp đê sông Bố Vệ để phòng lũ lụt (nay thuộc Thành phố Thanh Hóa).

Với nhiều công lao to lớn với nước với dân, ông Bùi Kim Tương đã được nhà vua phong thưởng nhiều lần. Năm 1755, ngày 25 tháng 11, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, vua Lê Hiển Tông ban sắc khen ngợi ông như sau: “ Sắc cho quan viên mục thông huyện Bùi Kim Tương người xã Thủ Hộ, tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia là bậc hào trưởng xứ Thanh Hoa theo quan thống lĩnh Vịnh Quận công. Lại theo sai phái kiêm thống lĩnh quân là Hải Quận công, đốc thúc các đinh phu đắp đất luỹ, có nhiều công lao, nay chỉ thiết ứng cho nhận chức Huyện thừa, đáng là bậc tiến công thúc lang huyện thừa huyện Trung Thuận, hạ chế cho ban sắc”.

Trong tờ sắc ngày 6 tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 29 (1768), ông lại được nhà vua ban sắc phong thưởng: “Sắc tiến công thúc lang huyện thừa Trung Thuận làm hạ chế Bùi Kim Tương, là hào trưởng cai quản địa phương, lại theo quan thống lĩnh đi trước Hải Quận công đi đánh các đạo ở Nghệ An, các trận Ba Giang, Đá Mai giành được thắng lợi, được nhận ban nhiều loại là bậc đệ tử, nay chỉ thiết ứng tăng chức Đồng Tri phủ, đáng là bậc cần sự lang, Đồng Tri phủ Trường Khánh, bậc hạ liêu cho ban sắc”. 

Ông mất ngày 21 tháng 9 năm Giáp Ngọ (1774 ), thời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786).Triều đình nhà Lê nghe tin ông mất liền cấp tiền mai táng và hương khói thờ phụng. Để ghi nhớ ân đức lớn lao của ông, dân làng đã lập đền phụng thờ ông và tôn ông làm Phúc thần và là Thành hoàng làng Lê Xá. Hàng năm vào ngày 21 tháng 9 Âm lịch, nhân dân trong làng tổ chức lễ tế thần để tưởng nhớ công lao to lớn của ông.

­­­Theo các cụ cao niên trong làng cho biết: Đền thờ Bùi Kim Tương trước đây được xây dựng tại làng Lê Xá, nhưng trải qua sự biến thiên của lịch sử, ngôi đền bị phá hủy. Năm 1990, với sự đóng góp của con cháu trong dòng họ Bùi cùng với chính quyền và nhân dân địa phương, đã tổ chức xây dựng lại ngôi đền. Đền nằm trên một khu đất cao ráo thoáng mát với diện tích 250m2, quay mặt về hướng Nam, gồm tiền đường 3 gian, hậu cung, bố cục theo kiểu chữ Đinh (J). Hiện nay,còn lưu giữ được 17 hiện vật cổ tiêu biểu như: Hương án bằng gỗ, bành kiệu bát cống, long ngai, giao ỷ thần vị, bảng đọc chúc văn sơn son thếp vàng, hộp đựng sắc, hai tờ sắc phong thời Lê và nhiều hiện vật khác có giá trị.

Đến ngày 17 tháng 11 năm 1998, đền thờ Bùi Kim Tương ở làng Lê Hương, xã Quảng Lộc đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 394/QĐ-VHTT.

Cuộc đời và sự nhiệp của ông Bùi Kim Tương là tấm gương tiêu biểu tô thắm trang sử vàng truyền thống của dân tộc, của quê hương để thế hệ hôm nay và mai sau luôn nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước ra sức phấn đấu học tập, tu dưỡng và rèn luyện, sẳn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.

Đền thờ Bùi Kim Tương ở làng Lê Hương, xã Quảng Lộc là di sản văn hóa có giá trị về nhiều phương diện, góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa trên đất Quảng Xương ngàn năm văn vật.


 

 

CHÙA MẬU XƯƠNG - TUYẾT PHONG TỰ

(Xã Quảng Lưu)

 

Chùa Mậu Xương xã Quảng Lưu, nằm trên khu đất hình thang “Đầu rồng” có diện tích tự nhiên là 12.500m2. Phía Bắc giáp đường làng, phía Đông Tây nối từ đường 4A, qua 4B, qua 4C ra tận bờ biển xã Quảng Lưu, phía nam giáp với cánh đồng, phía Đông giáp với đường 4B, phía Tây giáp với đường 4A. Vị trí và diện tích của Chùa đã quy hoạch trong bản đồ tổng thể của xã Quảng Lưu và đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Là ngôi chùa thờ Phật, gắn liền với sự giáng sinh của Phật Tổ và Liệt Thánh nội đạo. Chùa hình thành từ thời Trần, thuở sơ khai, Chùa có tên là Tuyết Phong, đến thời Lê, Chùa có tên là Tuyết Sơn Phong. Khi Phật Tổ giáng hạ và làng đổi tên thì Chùa có tên gọi là Yên Đông, đến năm 1830 làng Yên Đông lại đổi tên là làng Mậu Xương và từ đây Chùa mang tên là chùa Mậu Xương, xã Quảng Lưu ngày nay.

Vào giữa thế kỷ thứ XIV, năm 1368 năm Mậu Thân, có đôi vợ chồng họ Trần thời Minh ở Trung Quốc lưu cư sang Việt Nam trú tại Thanh Hoa tỉnh, Ma Xương huyện, Yên Hương xã, Làng Nguốn (tức là làng Mậu Xương, xã Quảng Lưu ngày nay). Mùa thu ngày 1 tháng 8 năm 1390, vợ chồng đào được 2 bình vàng. Đến tháng 2 năm 1420 (Nhâm Dần) hoàn trả lại cho khách Tàu (vì họ đến tìm của theo gia phả).          

 Tôn ông mất ngày 20 tháng 5 năm 1426 (Bính Ngọ).

 Lệnh bà mất ngày tháng năm nào không chép lại.

 Đến tháng 3 năm 1432 năm Nhâm Tý, có thầy Cao Tăng nước Tầu đến tìm ông bà để báo ơn nhưng ông bà không còn nữa, Cao Tăng bảo con trai của ông bà: Tại vườn bà đây, có huyệt đỉnh thượng, đạo nghiệp nhất sư lưỡng quốc, lại có tam long đáo hải, tứ phượng trình đường, nhất long lưỡng mộc song trùng kiến, tiền tắc hồ tăng bái phục, hậu tắc quốc long dẫn mạch, tả tắc ngũ hổ, chinh kỳ bái phục, hữu tắc bát bộ kim cương đồng tọa, lưỡng phương cửu thủy dẫn mạch, bát nhã lưu hành thủy diện, mộc xích tung hoành đáo hậu. Nay nhà ngươi đem hài cốt Tôn ông, Lệnh bà cất tại huyệt này, lập điện thờ tất có đại cát.

Ngày 2 tháng 5 năm 1432, cất mộ bà tầng dưới, mộ ông cất ở tầng trên, lập lều cỏ một tòa, đặt một lô nhang ngày ngày cầu nguyện.

 Nam Thiên gia phả có ghi:

             “Thượng sàng hạ mộ

              Lều mao nhất tòa

              Lô nhang nhất vị”.

Thờ Tôn ông là: Tự Pháp Hoa. Lệnh bà: (không chép lại).

Từ đó là sơ khai Điện thờ “Tuyết phong” nhân dân trong vùng thường đến cầu nguyện và hương đăng. Sau đó được tôn tạo xây dựng thành Tuyết Sơn Phong tự.

Hậu thế họ Trần tại làng Nguốn Thôn - Yên Hương xã sinh ra đông đúc, có nhiều người làm quan tại triều Lê.

Năm 1578 (Mậu Dần), ông Trần Ngọc Thích, là Trần Tướng Công, Quỳnh Lâm Hầu giữ chức Đô uý điện tiền chỉ huy sứ thời Lê. Tuổi đã cao, con cái chưa có, ông cáo quan về quê nhà tĩnh dưỡng. Về nhà, ông trai giới, tắm gội, đến chùa Tuyết Phong - Nguốn Thôn cầu nguyện mong có người nối nghiệp tông đường. Một đêm nằm mộng ông thấy có hai lực sỹ đưa đến Điện Lưu Ly, trên điện có một vị quan to nói với ông: Ông cha nhà ngươi trước đây có nhiều quả phúc, giờ đây nhà ngươi lại có già thiện căn, nên sớ cầu tự của nhà ngươi đã được ưng chuẩn. Lệnh cho tôn thần chùa này, tiền thân là Vua nước Tây Vực, hiện là Na La Tri Phật giáng sinh, lại cho Nam Hải Quán Thế âm Bồ tát làm lệnh phối. Nghe xong hai lực sỹ phò tá đưa ông ra. Khi tỉnh dậy ông bái tạ ra về. Năm ấy vợ ông là bà Hiệu Từ Ái có giáng ứng đầu thai, đến năm Quý Mùi 1583. Tháng 6 ngày 11 giờ Dần bà sinh ra một nam nhi, dáng mạo khác thường, mặt như trăng rằm, tính nết hiền hòa, thông sáng hơn người, nên đặt tên là Trần Ngọc Lành, đến năm 12 tuổi, văn thao, võ lược, không có gì là không tinh thông. Khi lên Thăng Long đổi tên là Trần Ngọc Trân, 16 tuổi vào hạt, 18 tuổi vào Quốc Tử Giám. Thời kỳ này nạn binh lửa xảy ra vô kể. Nhân cha ở quê bị bệnh, ngài không ra làm quan, trở về nhà chăm sóc cha già ốm nặng. Một hôm ngài vào chùa Tuyết Phong cầu nguyện, khi trở ra gặp một vị Tôn sư, trong phật lục có câu:

                “ Bỗng bởi đâu sự giời xui khiến       

                Thấy một ông lão lượng lững lơ

                Mờ mờ bóng dáng còn xa

                Tay nâng quyển ngọc ở ca non thần

                Bèn khẽ thủ ân cần than thở

                Phúc về đâu, gặp gỡ về đâu”

Ngài trình bày bệnh của cha với Tôn sư và Tôn sư cùng Ngài vào chùa Tuyết Sơn cầu nguyện. Tôn sư lấy 100 nén hương và 3 chén nước lạnh đăng đàn, cầu giải bệnh cho cha ngài. Tôn sư bảo Ngài, khi xong nhà ngươi mang nước lạnh và tàn nhang đem về cho cha uống, bệnh sẽ khỏi. Đến canh ba tỉnh dậy, Ngài không thấy Tôn sư đâu, nhìn lên đàn còn lại 7 cây hương, ngài vội đem nước lạnh về cho cha uống. Quả nhiên bệnh đó khỏi hẳn. Trần Ngọc Trân vội đến chùa lấy 7 cây hương và lập 7 lô nhang, lập bàn thờ trong điện và tôn tạo lại chùa rộng rãi, vững chắc hơn. Từ đó Chùa thờ Thượng Không Phật và Chư vị tôn linh, tên Chùa là Tuyết Sơn Phong.

Phật lục có câu:

             “Thất truyện di hương thành Phật đạo

              Lục thông thần trí trấn anh linh”

Năm Đinh Mùi (1607), Trần Tướng Công (Quỳnh Lâm Hầu) là cha của ngài đã quy tiên, bà Hiệu Từ Ái cũng quy tiên ngày 8/10 (không ghi năm nào). Trần Ngọc Trân quy táng ông bà và đưa linh vị vào chùa Tuyết Sơn Phong thờ phụng.

Mùa thu năm Bính Dần 1626, Ngài bỗng thấy trời mây đen tối, Ngài nhìn lên điện thờ đã thấy Tôn sư ngồi uy nghiêm mà nói rằng: Ta với con vốn có tiền nhân, nay đến đây báo đạo vài lời tiễn biệt. Ngài vội khấu đầu nói: Từ khi được 7 nén hương để lại phụng thờ, một lòng kính mộ, há dám hẹn lại, nay thấy Tôn sư xin xả thân đầu giáo, nhưng chưa cởi bỏ tấm thân phàm tục, phỏng biết có được không ?

Tôn sư nói: “Người Nam châu tính hay dâm đãng, khiến cho minh tuy phải bày ra địa ngục, cần phải cứu vớt lại, ta muốn giáo hóa con, không biết có quả quyết hay thanh tịnh được không? Ngài lạy Tôn sư và nói: Thiên đường địa ngục xin Tôn sư chỉ cho tường tận. Tôn Sư giảng đạo và chỉ cho Ngài rằng: Tiền thân con là Quốc Vương Tây Vực, có lòng nhân ái, rất sùng đạo Phật, sau khi hóa thân đã được thụ sắc Na - La - Tri - Phật. Sau khi đó được bổ nhận về chùa Tuyết Sơn Phong Nam Việt, quản trị sổ sách thiện ác, nhân dân các châu, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, nhân nhà Trần có âm đức và nơi đây Địa Linh vượng khí, Phong Thủy đại cát, nên có ngày nay sinh nhân quả, ta không tiếc gì mà không trở lại, giao cho bí pháp. Từ đó đêm đêm, Tôn sư giáng hạ về chùa truyền đạo pháp cho Trần Ngọc Trân.

Phật lục có câu:

             “ Tan canh ba tay trao miệng rỉ

             Dẫn đạo mầu quyết bí lục thông

             Truyền phép giá vũ phi phong

             Phi thân biến tướng dáng long hiện hình

             Truyền phép tróc qủy, trừ tinh

             Siêu phàm nhập thánh, anh linh vô cùng

             Quản tri tam giới thập phương

             Trừ tà trị bệnh uy càng nghiêm trang”.

Năm Mậu Thìn (1628), Ngài tham gia đào đắp đường huyện, bắt gặp một bản đồng, trong có 40 ấn đồng, Ngài mang về Chùa, hương đăng cầu nguyện. Hai tay vỗ vào nhau thành ấn, mở tay ra thành quyết, dậm chân luyện pháp cả vùng phong vũ âm vang. Từ đó Ngài đắc đạo “ Lục trí thần thông” có tài “ hô phong hoán vũ”, Ngài là Đức Phật Tổ - Thượng Sư Phật Bảo - Tự Pháp Lượng. Từ đây chùa Tuyết Sơn Phong còn có tên là chùa Yên Đông vì tên làng Nguốn đã đổi là làng Yên Đông.

    Ngài ra tay cứu nhân, giúp đời, dẹp yêu trừ quái.

             Sách Phật lục có câu:

             “ Nam Quốc phương danh Tam Bảo địa

             Trần môn xuất thế lục thông thần

             Yên Đông thắng cảnh địa ma xương

             Trần gia phát tích thiên Thanh Hóa”.

Ngài giáng hạ giúp đời, giờ Dần ngày 11 tháng 6 năm 1583 (năm Quý Mùi). Ngài quy tiên giờ Dậu ngày 28 tháng 01 năm 1643 (Quý Mùi), thọ 60 tuổi. Từ đó nhân dân trong vùng hàng năm làm cỗ đến Chùa để lễ kỷ niệm ngày mất của Phật Tổ là ngày 28/1 hàng năm.

Phật mẫu là bà Hiệu Từ Kế mất ngày 10/8 (không ghi rõ năm nào).

Hậu duệ của Phật tổ là Từ Thánh đó là:

- Ông Trần Nhật Tích là Tả Nhật Quang Tôn Thánh.

- Ông Trần Ngọc Khang là Hữu Nguyệt Quang Tôn Thánh

- Ông Trần Ngọc Vinh là Ngọc Quang Tôn Thánh.

- Ông Trần Ngọc Dinh là Hậu Quang Tôn Thánh

Các vị tứ Thánh cùng với các đệ tử Tự Pháp Mô, Tự Pháp Cống sửa sang, xây dựng lại chùa đã có quy mô to lớn từ thời Lê. Lập tĩnh đường Từ Minh ở Hoàng Long, truyền đạo pháp cho môn sinh có lúc tới hàng vạn người. Về sau được vua Lê Thần Tông phong sắc Nội Đạo Tràng và Thiên Tâm Chính Pháp.

Hàng năm, nhân dân làng Mậu Xương có các ngày hội, ngày lễ như ngày 14, 15 tháng Giêng. Ngày 28/1, ngày 23/11 và các ngày giỗ kỵ liệt thánh. Từ đó, khách gần xa đến Chùa lễ Phật ngày càng đông, không ngày nào là không có khách.      

Ở thời Lê, Chùa có quy hoạch mặt bằng hình chữ Tam (≡).

* Cung thứ nhất: Cung chính tẩm thờ Thượng Không Phật Bảo.

+ Hậu cung thờ Mẫu Liễu Hạnh và chư vị Phật Mẫu, Nhị vị Tiên cô.

+ Tả thờ Thập Bát Long Thần

+ Hữu thờ Ngẫu Đức Thổ Địa.

+ Dưới bàn binh thờ Ngẫu Hổ, Bạch Xà, Nha Tượng….

+ 2 nhà xuyên thờ Bát Bộ Kim Cương.

* Cung thứ 2: Thờ Tam Bảo Ngoại và Quan Âm Bồ Tát.

+ Bên tả: Thờ Đức Ông

        + Bên hữu: Thờ Thánh Hiền và Chư vị Thần Tổ Làng Mậu Xương.

      2 bên hồi đối xứng

      + 1 bên thờ Thần - Cao Lộc và Tứ vị Thánh Nương.

      + 1 bên thờ Thiên đột, Thổ địa.

      * Cung thứ 3: Thờ Phật Thích Ca và Hộ pháp.

Ngày nay do nhu cầu của nhân dân và số lượng khách đến chùa ngày càng nhiều, được sự đồng ý của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, phê duyệt thiết kế quy hoạch di tích như sau:

- Xây cung Thánh Mẫu bên tả thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Liệt Vị Phật Mẫu nhị vị Tiên cô.

- Xây Cung Thờ Thủy Tổ bên hữu thờ Thủy tổ và liệt vị Thần tổ trong làng và thổ địa Thần tài, các anh hùng liệt sỹ trong làng.

- Phía ngoài còn có nhà cho khách có nhu cầu gửi lô nhang gia tiên, hay lô nhang thất tự, chính diện có tháp chuông, tất cả bố trí theo trình tự đã có quy hoạch năm 2005.

Thời kỳ đầu từ (1432 – 1600 ): Chùa chỉ có một Cung làm bằng tre nứa, lợp tranh cỏ.

Từ năm 1600 – 1933: Dưới triều Lê và một phần triều Nguyễn, chùa đã được làm thêm 2 nhà xuyên, cung thứ 2, vật liệu bằng gỗ, tre, lợp tranh, xung quanh dựng ván.

Từ năm 1934 – 1937: Do ông Cung Duy Tâm là Quan xếp ga xe lửa ở Hà Nội tìm về chùa Tuyết Sơn Phong công đức và thiết kế xây dựng lại toàn bộ Chùa, vật liệu bằng gỗ, gạch, đỏ, ngói và sắm toàn bộ nội thất trong 3 cung thờ.

- Cung Chính tẩm và 2 nhà xuyên, cung thứ 2 và cung thứ 3, 2 nhà tả hữu. gác chuông, nhà bia và ngõ cổng ngoài đường 4A.

Xung quanh sân Chùa xây tường dắc, thời kỳ này chùa Mậu Xương rất khang trang và cung kính nghiêm trang.

Nguồn vốn do ông bà Cung Duy Tâm và nhân dân làng Mậu Xương công đức, khánh thành Chùa có Quan tỉnh, huyện, Cai tổng, Lý trưởng và nhân dân trong ngoài vùng tấp nập về Chùa lễ Phật từ 4 /1 đến ngày 30/1 năm 1937.

Tổ chức lễ hội có trò chơi đánh vật, đánh đu, chèo thuyền, đốt pháo bông, hát bội, hát nhà trò...

Từ năm 1991 – 2010:

Tháng 3 năm 1991, các cụ và nhân dân trong làng đã bầu ra Ban vận động gồm 6 người, huy động nguồn vốn của nhân dân trong làng dựng lại Chùa bằng tre, kè, trên nền Chính tẩm (Cung 1).

Ngày 16 tháng 6 năm 1992, do nguồn vốn của khách thập phương và nhân dân trong làng từ nhà kè đó làm lại nhà cấp 4 bằng gạch, gỗ, lợp ngói máy, diện tích là 63m2.

- Tháng 10 năm 1993, xây 2 nhà xuyên, diện tích là 12m2 vật liệu bằng bê tông hóa, lợp ngói Hạ Long

- Tháng 3 năm 1995, xây tường rào xung quanh là 650m.

- Tháng 2 năm 1996, làm nhà để phục vụ, bê tông hóa, diện tích là 42m2.

- Tháng 10 năm 1997, xây cung thứ 2, 2 tầng mái kiểu tiền bẩy hậu kẻ, bê tông hóa, diện tích là 65m2.

- Tháng 3 năm 2001 xây cung thứ 3, 2 tầng mái, kiểu nhà gỗ, bê tông hóa, diện tích 117m2.

- Tháng 3 năm 2003, xây gác chuông, cao 11,5m, 3 tầng, 3 gian, 2 bên có đường lên xuống, diện tích 44m2.

- Tháng 3 năm 2005, xây cung Thánh Mẫu, 2 tầng mái, lợp mái ngói Hạ Long, diện tích 88m2.

- Năm 2006, đào ao, kè ao, làm sân, làm nhà vệ sinh, nhà phục vụ.

- Năm 2007 – 2008, xây cổng Tam Quan. Làm đường vào Chùa.

- Năm 2009 – 2010, xây cung Thủy Tổ, bê tông hóa, 2 tầng mái, kiểu nhà cổ, diện tích 72m2.

Mua sắm đồ thờ, nội thất như đồ đồng, đồ gỗ, đồ gốm và cỏc vật thể phục vụ cho việc lễ Phật tương đối hoàn chỉnh.

Xung quanh vườn chùa trồng cây xanh, sân đặt cây cảnh, bể cạn, bể hoàn ngọc, ao chùa tương đối khang trang theo quy hoạch tổng thể. Khu di tích còn phải tiếp tục xây 5 công trình, dự kiến đến năm 2020 phải hoàn thành.

Là ngôi chùa gắn liền với sự tích Phật giáng sinh và liệt Thánh (nội đạo). Vì vậy lễ Phật hàng năm có rất nhiều ngày trọng thể.

1. Lễ Triều dạ đêm giao thừa và 3 ngày tết Nguyên đán.

2. Lễ Hội làng ngày 14 và 15 tháng Giêng. Rước Linh vị ở các Nghè thần về chùa. Rước cỗ cụ Chỉ.

3. Lễ huý kỵ Phật Tổ ngày 28/1, rước cỗ cụ Thủ Chỉ trong làng.

4. Ngày 20/5, ngày 8/7 và ngày 23/11 hàng năm làng tổ chức lễ huý kỵ các vị Liệt Thánh.

5. Ngày 5/5 và 15/7 và 8/4 tổ chức lễ Phật và cùng chúng sinh cô hồn.

Các ngày lễ trên tổ chức trọng thể và hành lễ theo kinh sách lưu lại của Nội đạo.

Không bói toán, thăng dương, chỉ phán hay lợi dụng Phật, Thánh để làm những việc phi pháp, sai lệch nét văn hóa phi vật thể của dân tộc.

Chùa Mậu Xương là di tích lịch sử văn hóa, có bề dày hơn 500 năm, một niên đại như vậy nên không còn những di tích vật thể ban đầu, nhưng đã được nhân dân địa phương và khách thập phương đóng góp xây dựng nhiều lần, đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh ngày 25 tháng 1 năm 1998. Quá trình xây dựng, tôn tạo đã khẳng định giá trị tinh thần tín ngưỡng Phật đạo của nhân dân ta.

Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và Chính quyền xã Quảng Lưu cùng với Ban quản lý di tích chùa Mậu Xương hoạt động, phát triển văn hóa phi vật thể và tôn tạo, xây dựng ngày càng khang trang theo định hướng văn hóa du lịch trong giai đoạn mới.

 


 

 

ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU HUÂN

(Xã Quảng Lưu)

 

Đền thờ Nguyễn Hữu Huân tọa lạc tại địa phận làng Lưu Hiền, Quảng Lưu. Đất Lưu Hiền vốn từ xưa đã có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt nắm giữ các chức như Tri phủ huyện ngoài, Tham biện tỉnh vụ trong tỉnh. Đặc biệt, ở đầu thế kỷ thứ XVII, làng Lưu Hiền xuất hiện Nguyễn Hữu Huân, một nhân vật lịch sử tài năng của địa phương, người đã có công giúp cho vua Lê trong sự nghiệp Trung hưng đất nước.

Nguyễn Hữu Huân sinh vào khoảng năm (1628), mất vào mùa xuân năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677). Trong quá trình phò Vua giúp nước ông đã có nhiều chiến công nên được tặng nhiều bằng sắc ca ngợi công lao cũng như khi mất giao cho dân thờ cúng.

Lịch sử và hành trang của Ngài được chép trong các nguồn sử liệu chính, không kể những truyền thuyết, chuyện kể liên quan đến ông mà những người cao tuổi làng Lưu Hiền còn truyền tụng lại. Ông có duệ hiệu Tuấn Lương Đại vương.

Nguồn tài liệu thứ nhất xác định Nguyễn Hữu Huân là người có công “Dực vận phù quốc(Lớn lao phù giúp đất nước) được làng Lưu Hiền tôn thờ làm Phúc thần, được ghi chép trong sách “Thanh Hóa chư thần lục”. Một cuốn sách được bộ Lễ biên soạn vào niên hiệu Thành Thái thứ 15(1903).

 Nguồn tài liệu thứ 2 khẳng định một cách chắc chắn thôn Lưu Hiền, xã Thủ Hộ, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương thờ phụng Tuấn Lương tôn thần được ban năm Tự Đức thứ 10 (1857).

 Nguồn tài liệu thứ 3: Thần chủ hiện tại đền thờ ông ghi: “Đương cảnh thành hoàng Lê triều sắc tặng phong Tuấn lương Đại vương thần vị”.

Văn tế thần chữ Hán ghi nguyên văn như sau: “Dực vận phù quốc thần võ, phúc khánh hiền lương, nhung uý trung dũng, thần tổ hậu đức phong công, sưu quần bạt tuệ, thảo bí kế nhi, tiêm trừ khôi liệt, tiết phục thần quan, phi cương quán quân, phồn nhi tuyên ứng, kiềm lê trách nhiệm, biên cương trọng ký, Cao Bằng tự hợp, cảnh phiên duy liên ấp nhiệm, nhất phương chi chúa tể”.

Kết hợp nguồn tài liệu Sắc phong, thần phả và những di vật lưu giữ tại địa phương, cùng với chính sử cho ta biết ngài tham gia đánh trận tại đất Cao Bằng, dưới thời Lê Trung hưng.

Theo chính sử: Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục ghi chép rất rõ: Bấy giờ đảng ngụ ở các xứ đều nổi lên, chúng cướp bóc, quấy nhiễu sở tại, các châu huyện bị đau khổ vì chúng. Nhà Mạc bị thất bại liên tiếp liền chạy sang cầu cứu Nhà Minh (Trung Quốc). Được sự che chở của các thế lực phong kiến nước ngoài, con cháu tướng tá nhà Mạc đã chiếm cứ Cao Bằng và xây dựng nơi đây thành một triều đình nhỏ, đối lập và chống lại chính quyền Trung ương.

Cùng thời gian này ở vùng Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang còn có các thế lực họ Vũ, họ Trần chiếm đất chống lại triều đình. Tại vựng đất Đại Đồng - Hà Giang, họ Vũ đã xưng Vương, lập thành một triều đình riêng, cát cứ liên kết với họ Mạc ở Cao Bằng.

Mùa xuân năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), Trịnh Tạc sai Đinh Văn Tả, Nguyễn Hữu Huân(1) đem quân đi đánh Mạc Kính Vũ ở Cao bằng. Vũ thua chạy sang Trung Quốc, dư đảng nhà Mạc kể từ Kinh Dụ đến Kinh Vũ, trải qua 3 đời gần 85 năm chiếm cứ Cao Bằng. Đây là trận trị Mạc cuối cùng, nhà Mạc hoàn toàn chấm dứt, đất Cao Bằng đặt dưới sự cai quản của chính quyền trung ương.

Trong trận chiến đấu này, Nguyễn Hữu Huân đã hy sinh(1). Triều đình đưa thi hài ông về an táng tại quê hương ở thôn Lưu Hiền, khu mộ chí của ông được khoanh vùng với diện tích là 5.000 m2 ở cồn Cổ Hạc (còn gọi là khu Mả Quan). Từ đó, hàng năm, vào ngày 14 tháng 2 Âm lịch, triều đình cử quan quân về tế giỗ ngài, ngài được nhà vua ghi công “Dực vận phù Quốc” và truy tặng “Tuấn Lương Đại Vương”.

      Trong làng, hàng năm có lễ hội trong tết Nguyên đán, tết cổ truyền 12 tháng Giêng), hội huý kỵ 14 - 2 của ngài Nguyễn Hữu Huân, hội 15 tháng 3 và tháng 5, ngày tết Vu lan 15 tháng 7 và hội ăn cơm mới thường vào tháng 9 hàng năm.

Trong các ngày hội thì thường vào 3 ngày: Tết Nguyên đán và lễ hội 14 tháng 2, địa phương hân hoan tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian như: hát bội, hát chèo, hát ghẹo, hát ống, hát nhà trò, đánh vật, chơi bài điếm, đánh cờ trống bỏi, chơi đu... Riêng hát nhà trò thường vui suốt đêm.

Xưa kia, đền thờ Nguyễn Hữu Huân được xây dựng khá đẹp và khang trang gồm: một hậu cung, 2 giải vũ. Trước 2 giải vũ là bể cảnh có hòn non bộ, tiền đường 5 gian, sân đền, bình phong và một cổng đền (gọi là Nghinh môn). Đền được xây dựng ở một khu dân cư sầm uất, gắn liền với dòng họ Nguyễn Hữu, nơi quê hương bản quán của ngài. Song, nơi đây là vùng đất cận kề biển cả. Đền lại không được bảo dưỡng thường xuyên, ảnh hưởng của chiến tranh, đặc biệt là sự xâm hại của bão gió, đền bị hư hại nhiều.

 Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ V (khóa VIII) về giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nhân dân, dòng tộc đã bỏ công sức tiền của sửa sang lại ngôi đền, phần nào mang những nét diện mạo xưa. Ngày 22 tháng 1 năm 2001, đền thờ Nguyễn Hữu Huân đã được tỉnh Sở Văn hóa Thông tin ra Quyết định Số 50/QĐ - VHTT công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

 

 

 

 


 

 

ĐÌNH LÀNG BẤT ĐỘNG

(Xã Quảng Ngọc)

 

Đình làng Bất Động Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa ký Quyết định xếp hạngdi tích cấp Tỉnh theo Quyết định số 2620/ QĐ - UBND ngày 30 tháng 8 năm 2007.

Về kiến trúc, đình được tọa lạc trên một thế đất hình linh quy (rùa) vờn nước. Mặt trước đình nhìn về hướng Tây Nam. Về cấu trúc Đình có 3 gian 2 chái. Ngoài hiên Đình có 6 cột đá tứ diện chạm trổ hoa văn, trụ cột đứng trên chân tảng cổ bng được chạm khắc tinh xảo. Cổ nhân đã khắc vào cột đá tứ diện bảy mươi sáu chữ Hán với nội dung nhằm để lưu truyền những trước tác cho đời sau như là sự gửi gắm những ước vọng: Quân sơn sừng sực thanh đài các. Chúng thủy doanh doanh lộc đạt đường”. Đình Bất Động còn có hai bức phù điêu hình hổ phù ở gần nóc đình là những tác phẩm mỹ thuật đẹp. Ở các mái cong ở gần chái còn có hai linh vật kỳ lân, mỗi con cầm một tấm biển có kiểu dáng cổ xưa chạm trổ hoa văn; Một con mang biển chữ “Thiên hạ thái bình”, một con mang biển chữ “quốc gia thịnh trị mang ý nghĩa triết lý.

Về vị thần hoàng được thờ ở đình, hiện nay không còn tài liệu nào cho biết một cách cụ thể, nhân dân trong làng nói đến rất nhiều vị thần được thờ ở Đình nhưng cũng chưa được xác minh một cách chính xác.

Hơn ba trăm năm đã trôi qua, tường đình làng Bất Động đó rêu phong tầng tầng lớp lớp, gỗ bị mối mọt hư hỏng dần. Nhưng những chữ Nho khắc vào cột đá của cổ nhân vẫn cứ ngời sáng ánh hào quang soi cho hậu thế từ đời này sang đời khác. Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, đình làng Bất Động đã lưu lại nhiều sự kiện lịch sử cách mạng và kháng chiến, tiêu biểu là “công binh xưởng” chế tạo vũ khí đánh giặc, là nơi làm kho chứa hàng trăm tấn lương thực để nuôi quân đánh giặc. Khi bộ đội về làng, Đình là nơi đóng quân tập luyện, rèn cán, chỉnh quân, là trụ sở của Ủy ban hành chính kháng chiến của địa phương, là nơi học tập của lớp học bình dân học vụ, đình còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử của địa phương.

Làng Bất Động xưa kia tổ chức nhiều nghi lễ cúng tế ở đình làng, các Nghè thờ thần và Chùa thờ bà Tiểu Kính: lễ chạp đình, lễ chạp nghè, chạp chùa cùng vào ngày 30 tháng chạp âm lịch. Trong ngày hội đình, lễ rước các sắc vua phong từ đình về nghè cùng với cỗ bàn đề thờ cúng trong 3 ngày tết Nguyên Đán được diễn ra tấp nập với tiếng chiêng, tiếng mõ, tấp nập tưng bừng.

Hằng năm, cứ mỗi dịp xuân về, người dân làng Bất Động lại tụ tập về Đình để làm lễ dâng hương “tri ân và cầu phúc đầu năm”. Trong ngày này, mỗi họ đều có cỗ đem ra Đình để cúng tế. Đội tế lễ của làng trong trang phục cổ xưa hành lễ đã đưa con người hướng về “ôn cố tri tân”, các bậc tiền nhân đã có công “khai thác dương cơ, triệu bổi nghĩa chỉ” và nhờ có “xây đắp nền nhân” mà hậu duệ đời đời phát triển bền vững.

Đình làng Bất Động là một di tích lịch sử lâu đời, được nhân dân trùng tu sửa chữa nhiều lần, nên kiến trúc của ngôi đình không còn được như xưa, nhưng dấu ấn về một ngôi Đình cổ vẫn luôn sống mãi trong tâm khảm và ký ức của nhân dân.

 

 

 


 

 

ĐỀN PHÚC VÀ BIA TÂY SƠN

(Xã Quảng Nham)

 

Di tích tọa lạc trên địa phận làng Cự Nham, xã Quảng Nham, làng Cự Nham là tên chữ, nhân dân còn gọi là làng Mom là tên Nôm. Từ xưa Cự Nham là vùng ven biển, bên cửa sông Ghép, ngoài người gốc là cư dân bản địa, còn nhiều dòng họ như Trần, Cầu từ xa chuyển đến từ thế kỷ thứ V- VI, ngoài ra còn có nhiều người gốc từ Quảng Bình chuyển ra làm nghề đánh cá.

Trong cuộc Nam chinh vào khoảng năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2(1070), Nhà vua đã ghé vào lạch Ghép(1), nhà Vua lên bờ nghỉ mát dưới rừng cây cổ thụ, thấy phong cảnh sơn thủy hữu tình, hỏi ra mới biết là làng và rừng cây chưa có tên, mà dân cư ở đây người nào cũng cường tráng mặn mòi, giọng nói oang oang, dáng người chất phát thuận hòa, sống nơi đầu sóng ngọn gió. Nhà vua nghỉ đến chữ "Cự", dưới chân toàn đá (Thạch), trên đầu là núi (Sơn) hai chữ ghép lại thành Nham và tên Cự Nham là tên chữ có từ đấy.

Chùa Đồng được xây dựng to lớn bên cửa biển, hàng năm các đời Vua Lý đều xa giá về chùa Đồng nghỉ mát và tụng kinh niệm Phật. Trong chùa có Tam bảo Phật và các vị la hán là 36 pho tượng được đúc toàn bằng đồng nên gọi là chùa Đồng.

 Làng Mom cự Nham - Đền Mom

Lạch Ghép sát chân dãy núi Ghép, từ thời tiền Lê đã đào một con sông chạy từ sông Mã cắt qua huyện chảy vào lạch Ghép (sông nhà Lê) năm tháng qua đi Lạch Ghép chuyển dần về phía Nam, phía Nam dãy núi Ghép hình thành lên mỏm cát lớn hình tựa quả bầu dài

    Làng Mom hình tựa quả bầu

    Đền trên, đình dưới sông sâu trước làng

 Một bộ phận lớn dân Cự Nham đến lập nghiệp hành nghề (đánh cá) ở mỏm đất đã được bồi này, từ đó có tên mới là'' Làng Mỏm Cự Nham''. Thời nhà Tống khi vua §oµn T«ng bÞ ng­êi Nguyªn bøc hại, vî con ph¶i v­ît biÓn l¸nh n¹n sang nước Nam, kh«ng may thuyÒn lËt, x¸c tr«i d¹t ®Õn DiÔn Ch©u chç cöa biÓn Cµn H¶i, cã nhiÒu hiÓn øng linh dÞ lín, nh©n d©n lËp ®Òn thê rÊt linh øng. C¸c vïng gÇn cöa s«ng ®Òu lËp ®Òn thê, trong ®ã cã lµng Cù Nham.

    Đôi câu đối nhà thờ trung đường đền Phúc ghi:

    “Hương hỏa ức niên âm tích Tống

    Phong ba nhất trận mặc phù Trần”

Tạm dịch:

    Hương khói muôn năm nhớ âm hồn người Tống

    Bão tố một trận ngầm phù hộ nhà Trần

Vào năm 1285, giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta lần thứ hai, vua Trần giao cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật thống lĩnh thủy quân và chọn Biện Sơn, Lạch Bạng, Lạch Mom (Ghép) là nơi tập trận và hội quân thủy bộ. Khi giặc ồ ạt tràn vào nước ta, vua Trần cùng thủy thủ đoàn bí mật xuôi thuyền vào Nam đánh chặn Toa Đô đến lạch Mom (Ghép) hết gió đông, gió nam thổi mạnh, vua Trần lên bờ hội quân thủy bộ, vua cùng quần thần vào đền Mom dâng hương cầu khấn. Thần nhân ứng nghiệm đã có gió đông, vua Trần cùng đoàn thủy binh Đại Việt đánh quân thủy Toa Đô một trận đại bại, riêng Toa Đô kéo tàn binh chạy ra lạch Mom (Ghép) bị đạo quân của Đại Toát Lê Mạnh mật phục đánh trả, Toa Đô bị thất bại.

Giang sơn thu về một mối, vua Trần giữ lời hứa đã cấp sắc xây dựng đền Mom to lớn nguy nga, tự tay tặng các Hoành phi câu đối.

    Đôi câu đối nhà tiền đường ghi:

    “Xã tắc phát phu bất ư Mông Cổ đồng thiên địa

    Xuân thu trữ đậu trường giữ ly thiêng vạn cổ kim”

 Tạm dịch:

    Toàn dân cắt tóc xin thề không đội trời chung với giặc Mông Cổ

    Quanh năm cúng giỗ giữ niềm tin trong trời đất muôn đời.

Các làng bên cửa Lạch dọc ven biển Thanh Hóa, Nghệ An đến nay rất nhiều đền miếu phụng thờ (Tứ vị Thánh Nương). Riêng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật khi cầm quân đã đóng bản doanh tại làng Mom, sau này Nhà vua cắt đất phong cho vùng Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Chiêu Văn Vương đã đưa tôn thất và gia binh về đặt bản doanh tại chân núi Văn Trinh (Quảng Hợp). Một bộ phận thủy binh thạo nghề sông biển chài lưới của tôn thất họ Trần đã kéo về làng Mom khai cơ lập nghiệp. Đến nay còn truyền lại tế lễ cung đình thời Trần và đánh cờ người.

Cuối thời Trần, vua Trần sai thượng tướng Trần Khát Chân chặn đánh giặc Chiêm Thành là Chế Bồng Nga ở lạch Ghép (Mom), đến nay ở làng Mom còn đền Trần Nhật Duật và Trần Khát Chân (Đức Thánh Lưỡng) thờ ở đền Ông.

Làng Mom - Cự Nham - Đền Phúc

Thời Tây Sơn Nguyễn Huệ (1778-1802), trước sự suy sụp của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Huệ cùng đội quân áo vải cờ đào đem quân ra Bắc. Trên đường ra Bắc, Nguyễn Huệ đi bằng đường thủy và đã vào lạch Mom (Ghép) tại đây đã diễn ra trận quyết chiến căng go để giành lấy tuyến đường thủy bộ quan trọng này. Trước khi định ra các mệnh lệnh hành quân thần tốc, Nguyễn Huệ đã vào đền Phúc dâng hương, nhân dân làng Mom (Cự Nham) cùng nhân dân huyện Quảng Xương cho con em trai tráng nhập nghĩa quân Tây Sơn. Sau này Quang Trung Nguyễn Huệ đã cấp sắc trùng tu lại đền Mom và sai La Đức Ứng anh em cọc chèo với Quang Trung soạn lời văn bia khắc vào đá đổi tên thành đền Phúc.

(Phúc từ bi Ký).

Đền Mom - Đền Phúc

Đền Mom được xây dựng thời Trần, đến thời Nguyễn được trùng tu tôn tạo - với kiến trúc hình chữ Đinh. Ngôi đền đẹp lộng lẫy. Phần nội thất thì thực sự phong phú về khối lượng và màu sắc cổ truyền, khu đền là một rừng cây cổ thụ hỗn giao của nhiều loài cây khép tán nhiều tầng và một khu rừng đền sinh thái hiếm có của vùng đất bên cửa sông trên đất Thanh Hóa. Trong rừng đa phần là Lim, Gội, Thị, Bời Vời, Các, Sung… Có nhiều cây to đến 2 đến 3 người ôm. Đặc biệt có cây đa Gác Chằng to tới 4-5 người ôm. Cây Đa này năm 1945 đã vinh dự treo cờ búa liềm ngày cách mạng về. Năm 1964, với quyết định trị thủy đào lạch qua đền toàn thể 11 di tích cùng khu rừng sinh thái đã có tới nghìn tuổi chỉ còn trong hoài niệm, phần còn lại đến cuộc chiến tranh chống Mỹ, ngoài pháo kích vào, trên trời máy bay Mỹ vào ra đều không quên dội bom, những nơi nào có cây cao bóng cả.

Đền Ông, đền thờ Đức Thánh Lưỡng, bên hữu đền Phúc thờ (Trần Nhật Duật và Trần Khát Chân). Tọa lạc bên bờ sông, ngoảnh mặt hướng Nam, đền được xây dựng cuối thời Trần, kết cấu kiểu tiền nhất hậu đinh nhưng nhỏ hơn đền Phúc. Nhà tiền đường có 2 ông giữ cửa, bên hai vì kèo hồi có chồng rường bảy kẻ, các kẻ được chạm khắc hoa văn tứ linh, bốn vì kẻ truyền được chạm các vật linh, lá hoa, toàn bộ ngôi đền là một tuyệt tác về nghệ thuật chạm gỗ thời Trần.

 Đình: đình thờ Quang Trung - Nguyễn Huệ

(Thời vua Quang Toản xây dựng) Đình tọa lạc bên tả bờ sông, đền Phúc ngoảnh mặt hướng Nam. Đình 5 gian, gian đầu lớn nhất đặt hương án thờ, 4 gian còn lại trống để hội họp, hát trống Quân Tây Sơn, hát giao duyên cửa đình. Đến thời Nguyễn Ánh Gia Long thì Đình bị triệt phá gian nhà thờ, truy tìm đập vỡ bia đá và sắc phong, riêng còn một bia đá được các cụ xóa một số chữ đem về cất dấu nên đến nay vẫn còn.

Bia đền Phúc

Văn bia cổ bằng đá 2 mặt được ghi bằng văn tự và chữ Hán trên trán bia chạm hổ phù ngậm chữ Triện thọ. Bia có tên (Phúc từ bi ký), mặt sau từ trái sang hàng thứ 3 có dòng chữ: Hoàng triều Quang Trung ức vạn niên chi tam tuế, tại canh tuất du nguyệt cốc thời. Đông Lĩnh, Ngọc Đồng cư sỹ Đốc học Hàn lâm viện Thanh Khê Bá La Đức Ứng tái bái soạn Tức (giờ tốt tháng Canh Tuất niên hiệu Quang Trung thứ 3 (1780). Người soạn: La Đức Ứng, tước Thanh Khê bá, chức Đốc Học, Hàn Lâm Viện, hiệu là Ngọc Đồng Cư Sĩ người Đông Lĩnh (Theo gia phả họ La thì ông là con cháu họ La, nay ở xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn). Toàn bộ nội dung văn bia ghi lại chứng tích một thời về vùng đất kẻ Mom.

Lễ hội ngày nay.

Trải qua các cuộc chiến tranh, đất nước hòa bình quê hương đổi mới, người dân kẻ Mom, Quảng Nham ngày nay cùng bắt nhịp và hòa mình vào dòng chảy Văn hóa tiến bộ cùng đất nước.

Đền phúc và quần thể di tích xưa không còn như cũ nhưng nền đất cũ vẫn hiện diện. Nhân dân Quảng Nham đoàn kết cùng bắt tay xây dựng lại đền, dù không nguy nga như cũ, nhưng đền phúc mới cũng đủ nơi hương khói phụng thờ. Tấm bia đá Tây Sơn bao năm bị lấp vùi, nhờ sự giữ gìn của nhân dân mà vẫn còn lưu giữ cho tới ngày nay.

Ngày 17 tháng 1 năm 2003, toàn khu di tích danh thắng đã được Giám đốc sở Văn hóa - Thông tin Tỉnh Thanh Hóa ký Quyết định số 47/QĐ - VHTT cấp bằng công nhận di tích lịch sử đền Phúc và bia Tây Sơn là di tích lịch sử cấp Tỉnh. Mỗi năm tết đến xuân về, toàn dân trong xã ngoài làng khách du từ tứ phương nô nức trảy về đền Phúc Quảng Nham vui hội, vui xuân dân hương, cầu phúc, cầu tài, cầu vạn sự hành thông, thành đạt.

- Tế lễ: Tế bốn chầu đại đình bằng 4 cỗ lớn vào các ngày 18 tháng Chạp và mùng 6-7-8 tết.

- Lễ tế nữ Quan cờ Người vào ngày mùng 2 tết.

- Lễ Dân Mã và chèo bơi ngày 5 tết.

- Lễ cầu ngư ngày 12 tết.

- Lễ cầu siêu các anh hùng liệt sỹ tối 15 (Rằm tháng Giêng).

- Hội đánh cờ người ngày mùng 2 và ngày mùng 5 tết.

- Hội múa võ Tây Sơn ngày mùng 5 tết.

- Hội nấu cơm thi ngày mùng 6 tết.

- Hội hát trống quân Tây Sơn và hát giao duyên cửa đình ngày mùng 7 tết.

Đặc sắc và cổ truyền nhất là tế nữ quan đánh ván cờ người đầu xuân ngày mùng 2 tết, 32 Quân cờ bằng người thật được tuyển trong dân từ đầu năm, gái trai thanh tân tuổi từ 15-18. Tế nữ quan lung linh như thần tiên dáng thế, đánh cờ người quân tướng chuyển động như phượng múa rồng chầu, mãn nhãn khách du khi được xem tế Nữ quan đánh cờ người tại đền phúc.

Thành kính trên đền tế nữ quan đánh cờ người, rộn rã dưới sông tiếng hò reo bơi trãi, 4 đội thuyền rồng xanh đỏ tím vàng, mỗi đội 20 tay bơi, trên bờ hàng vạn người, đủ giọng nói vùng miền, đủ sắc màu áo khăn hò reo vang dậy, khách du lịch về dự hội chắc rằng xem trên đền sẽ tiếc hội dưới sông.

Lễ hội diễn ra với 3 màn múa võ Tây Sơn, 3 màn nấu cơm thi, thành thật mà nói rằng độc nhất cõi dân ta, võ Tây Sơn mà còn lưu truyền lại đất kẻ Mom nay được phục hồi không kém phần hấp dẫn; màn 1 đánh trận Hạ Hồi, màn 2 đánh trận Ngọc Hồi, màn 3 đánh trận Đống Đa, 3 màn võ sôi động từ đầu, người xem kín khắp sân vận động, hồi hộp dõi theo, thở phào reo vui, như chưa bao giờ được xem võ thuật cổ truyền hay đến thế.

Thật là:

 Năm lũ cũng trảy kẻ Mom

 Mười lũ cũng trảy kẻ Mom

 Đâu hơn hội mở tết xuân

 Dưới sân chèo trãi, Đền sân cờ người

 (Ca dao cổ)

Từ Thành phố Thanh Hóa, theo Quốc lộ 1A vào Nam ra đến đầu núi Chẹt (Ghép) rẽ trái theo đường nhựa về đền Phúc xã Quảng Nham.

 


 

 

ĐỀN THỜ TƯỚNG QUÂN LÊ ĐĂNG TIỆM

(Xã Quảng Nhân)

 

Làng Phong Hậu xưa là một vùng đồng chiêm trũng, quanh năm ngập nước, dân cư thưa thớt, người dân chỉ sống dựa vào một vụ lúa nước trong năm. Dưới triều Lê Cảnh Hưng, cụ Lê Thiên Hậu là người gốc Hà Nội được nhà vua điều về vùng đất này để khai cơ lập ấp, xây dựng làng, đặt tên là làng Phong Hậu, nay là thôn 4 xã Quảng Nhân, huyện Quảng Xương. Cũng như bao làng quê khác, trước đây làng Phong Hậu, xã Quảng Nhân cũng có đình, có nghè thờ tự, tế lễ nhưng người đã có công khai cơ lập ấp, đánh giặc giữ nước. Trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, cùng với những năm tháng chiến tranh chống giặc ngoại xâm, đất nước còn nhiều khó khăn, con em thiếu trường lớp học tập, đình, nghè làng Phong Hậu bị tháo dỡ để xây dựng trường học và công sở xã, duy chỉ còn lại ba sắc phong, được ông Lê Văn Vũ là hậu duệ của Lê Thiên Hậu còn lưu giữ.

Theo các cụ cao niên kể lại, tướng quân Lê Đăng Tiệm là cháu của ngài khởi tổ Lê Thiên Hậu, sinh ra và lớn lên tại mảnh đất làng Phong Hậu, nay là thôn 4 xã Quảng Nhân. Hơn 100 năm chống phong kiến và giặc ngoại xâm, tướng quân Lê Đăng Tiệm đã tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Đến năm 1783, dưới triều Lê Cảnh Hưng, Lê Đăng Tiệm được cử cầm quân chống giặc ngoại xâm. Do có nhiều công lao to lớn với dân với nước, tướng quân Lê Đăng Tiệm được Nhà vua phong 3 đạo sắc:

- Đạo sắc 1 phong ngày 4 tháng 9 năm Mậu Tuất (1778) được dịch ra như sau: Thanh Hóa tỉnh, Quảng Xương huyện, Vạn Linh xã, Lê Đăng Tiệm vì dỹ thắng tô đội diễu binh đội trưởng, ban thân Tù Thượng tướng Quốc bảo quan hoa công đại tướng quân đoan là quận công tiến chinh thuận quảng đạo lĩnh hiệu vi đạo dỹ kinh, chỉ duy ứng bách bộ chức khổ vi thần lực tướng quân hiệu lệnh ty tráng sĩ bách bộ ba thu cố sắc. Cảnh Hưng tam thập cửu niên, cửu nguyệt tứ nhật (Cảnh Hưng năm thứ 39, tháng 9, ngày mùng bốn).

- Đạo sắc 2 phong ngày 26 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1782) được dịch ra như sau: Quảng Xương huyện, Vạn Linh xã, phó thiên hộ Lê Đăng Tiệm vì dỹ Nhâm Dần niên, phụng tự vương tiến phong dỹ vị duy cặp chư quân dực đói công những do thắng đội diểu binh nhất tam suy đối tại khô tương lọc dỹ kinh chí duy lọc thức nhất thứ tái khâm thưởng nhất thứ ứng thiên hộ thức khả vi trung tướng quân hiệu lệnh ty ky bái tráng sĩ vân kỳ uý thiên hộ trung tuyển cố sắc Cảnh Hưng tứ thập tứ niên nhất nguyệt nhị lục nhật (Cảnh Hưng năm thứ 44, tháng Giêng, ngày 26).

- Đạo sắc 3 phong ngày 26 tháng 2 năm Quý Mão 1783 được dịch ra như sau: Quảng Xương huyện, Vạn Linh xã, bách hộ vì phụng tự vương sơ chính duy tập chư quân dực đối công nhẫy do thắng tô đội diểu binh nhất tâm suy đối tai khô tương lọc dỹ kinh chỉ huy lục chức nhất thứ ứng phó thiên hộ chức khô vi tráng tiết tướng quân hiệu lệnh ty say kim tráng sĩ nhất ky ứng phó thiên hộ truy liệt cố sắc.

Theo bút tích ghi lại, tướng quân Lê Đăng Tiệm mất ngày 15 tháng 1 năm 1784 (năm Giáp Thìn). Căn cứ vào bản dịch các sắc phong, tướng quân Lê Đăng Tiệm là người có công lao to lớn trong việc đánh thắng giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi. Để tỏ lòng thành kính những bậc anh minh, con em dòng tộc họ Lê và nhân dân thôn 4 xã Quảng Nhân đã đóng góp tiền của xây dựng lại ngôi đền trên nền đất cũ với diện tích 2.250m² nằm ngay giữa làng. Đền được xây dựng gồm 1 chính tẩm thờ tượng tướng quân, 1 tiền đường, tất cả đều lợp ngói, phía trước đền là sân, xung quanh xây tường rào. Hiện nay trong đền còn lưu giữ một số di vật cổ như ngai, bát hương, bài vị, bảng đọc chúc văn, kiệu, hòm đựng sắc, tắc tải, thanh kiếm, tất cả đều chưa rõ niên đại. Tự hào về dòng tộc họ Lê mà nhân vật chính là tướng quân Lê Đăng Tiệm, các thế hệ con cháu họ Lê thôn 4 xã Quảng Nhân ngày nay luôn ý thức trước linh vị tổ tiên, " tiên linh ta cần kiệm gây cơ nghiệp, trung hậu giữ gia phong qua biển dâu dầm mưa dãi gió vững tay chèo lái vượt thác ghềnh, đời càng vững cây bền gốc, ngày thêm thắm lá tươi cành, con cháu ngày càng tiến bộ, tổ tiên muôn thuở hiển vinh". Hằng năm vào ngày 15 tháng Giêng, con cháu dòng tộc họ Lê và nhân dân thôn 4 hội tụ về đền tổ chức lễ giỗ tướng quân Lê Đăng Tiệm trong không khí thành kính, trang trọng.

Đền thờ Lê Đăng Tiệm và dòng họ Lê thôn 4 xã Quảng Nhân được Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 126/QĐ - VHTT công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 2 tháng 8 năm 1991. Đây không chỉ là niềm tự hào của con cháu dòng tộc họ Lê, mà là còn là niềm tự hào của nhân dân xã Quảng Nhân. Vì vậy, ngôi đền rất cần được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, các ngành, các tầng lớp xã hội để xây dựng khang trang hơn, xứng đáng với di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

 

 


 

 

ĐỀN THẠCH TRỤ ĐẠI VƯƠNG

(Xã Quảng Phúc)

 

Làng Ngọc Đới, xã Quảng Phúc đã bao đời nay vẫn tôn thờ một vị thần. Đó là vị thần Thạch Trụ Đại Vương, là một hòn đá hấp thụ khí anh linh trời đất từ thuở khai thiên, lâp địa. Tương truyền, Thần thích ngao du sơn thủy, phiêu lưu vô định, lấy nước chảy, sóng reo làm theo dòng sông mà đi, lấy núi lở đá lăn làm xe theo ngọn núi mà đến, thần qua chơi miền sông Yên, thấy quang cảnh kỳ lạ thì dừng lại, xóm làng thưa thớt nhưng kiểu đất rất đẹp, dòng sông Yên xuôi về đến đây bỗng vòng lượn lại như lưu luyến không muốn trôi đi, giống hình cái Đai Ngọc của bậc Khanh tướng. Vì kiểu đất ấy, người có chữ đặt tên làng là Ngọc Đới, nghĩa là làng Đai Ngọc, nhưng dòng sông không thay đổi được số mệnh, đàn ông như đàn bà, người già như người tre vẫn sợi dây cói thắt ngang lưng con cón ra đồng Mê, xuống đồng sác để bắt con tôm, đào con cáy kiếm sống, cho nên họ gọi làng Ngọc Đới nay bằng cái tên nôm na là làng Kẻ Dải (Dải là cái dây thắt lưng).

Kẻ Dải - Ngọc Đới ở nơi đầu sóng ngọn gió, mười năm mất chín năm lụt lội, bão giông, nhưng bãi sác, dòng sông vẫn có sức hấp dẫn mạnh đối với con người. Họ là dân tứ chiếng chạy loạn, chạy đói, chạy giặc… đến nơi góc bãi, cuối sông này thì dừng chân tìm bến buông neo kiếm sống. Họ mang theo trên lưng cái khổ ải của người dân phiêu bạt, không quên mang theo niềm tự hào tổ tiên thơm ngát khói hương bên cạnh nghè Thành Hoàng con cháu họ Trịnh lánh nạn Tây Sơn, con cháu họ Lê tránh Nhà Nguyễn vào đây an cư lạc nghiệp đến ngày nay.

Theo truyền thuyết bấy giờ vào thưở xa xưa Ngọc Đới mới bắt đầu cuộc khai phá trường kỳ, thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành cất quân đi đường thủy vào Nam bình định Chiêm Thành, lúc trở về thấy hai bên bờ sông đất bỏ hoang nhiều mới khuyến khích dân lưu tán hò nhau khai phá. Những mảnh đất kề bên sông như Ngọc Đới tất nhiên được vỡ hoang trước. Thời gian ấy khoảng cuối thế kỷ XVIII, đời sống con người phần nhiều thiếu cơm, chỉ có tôm, cua, cá đầy đồng, đầy sông. Một hôm có một người đi chài cá dưới sông gặp một hòn đá cản trở ông, tránh lối nào cũng vẫn bị vướng hòn đá. Ông định bốc hòn đá ném lên bờ nhưng hòn đá không hề dịch chuyển dù là hòn đá không to. Ông mới khấn rằng “ đá có linh thiêng để tôi đưa lên bờ bái thờ cũng phù hộ tôi làm ăn may mắn”, dứt lời hòn đá nhẹ bỗng, ông chài nâng hai tay đưa hòn đá lên bãi bên bờ sông Ngọc Đới gọi là Bái Con Cá, ông xuống sông đánh một mẻ vô vàn tôm cá. Dân trong làng nghe tiếng linh thiêng, mỗi khi xuống sông đánh bắt tôm cá khấn ông Thần đá đều được phù hộ. để ở bờ sông bất tiện, dân làng rước Thần Đá về thờ dưới gốc đa đầu làng, do đó Bái sông mang tên Bái Đai. Thần như để làm chứng tích cho muôn đời sau, câu chuyện thần thoại không hề bịa đặt. Từ đó Đá Thần vui cảnh mến người ở luôn tại Ngọc Đới, nơi dòng sông lượn thắt cổ bầu tạo thành hình thể đất Khanh tướng Đai Ngọc.

Theo thần tích còn l­ưu lại: Giặc Chiêm Thành luôn quấy phá miền biên giới phía Nam nước ta từ các thời vua Lê Đại Hành đến Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông đều nhọc công đánh giặc. Năm Ất Dậu 1045,Thái Tông thân chinh bình định phía Nam, Vua đánh mãi không thắng đành đem quân về, đến nửa đường nghe tin Ỷ Lan Nguyên Phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa vui vẻ, trong cõi vô sự, nhà Vua nói:Nguyên Phi là đàn bà mà còn làm được như thế, thế mà đàn ông như ta lẽ nào lại chịu sự thua kém hay sao” Nhà vua truyền quân quay trở lại, đang mùa xuân, mùa nước cạn, đến khúc sông lượn thắt cổ bầu, thuyền ngự to nặng không tiến lên được, quân lính phải dùng dây kéo nhích từng bước. Thái Tông hỏi “ Đây là đâu? Sao lúc Trẫm đi không thấy”, có người tâu: “Đây là Cổ Dải, đi qua vì có nước triều lên nên Hoàng Thượng không để ý”. Nhà Vua bảo quan quân tìm hiểu xem nơi đây có Miếu thờ vị thần nào linh thiêng không. Dân làng dẫn đến gốc đa và nói “Vị thần này linh thiêng lắm”, Thái Tông liền sai quan khâm sai mang cỗ vật đến tế và khấn: “Xin thần hãy anh linh hiển thánh âm phù hộ cho dân đánh giặc Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi, được như lời, vua sẽ ban sắc phong và sai dân lập đền thờ”. Viên khâm sai trở ra đến bờ sông thấy thuyền nhà Vua đang rẽ nước đi băng băng, không cần ai kéo lôi chèo chống gỡ cả. Trận ấy thắng to, bắt được tướng giặc Chế Củ và năm vạn người Chiêm, nhờ có thần đá phù hộ. Trước ban sắc phong làm Thạch Linh thần tướng, sau sai dân lập đền thờ với đôi câu đối:

             “Chiêm Thành trận Lý linh thanh chấn

             Ngọc Đới giang đào Thánh Thạch lưu”.

Đến thời Lê Trung hưng quân Mạc cướp phá Thanh Hóa, tướng Mạc Ngọc Liễn cậy mạnh đem hùng binh tiến vào của biển Ngọc Ghép ngược dòng sông Yên để đánh các huyện Ngọc Sơn – Nông Cống. Các tướng nhà Lê: Trịnh Văn Hải, Ngô Cảnh Hựu, Ngọc Liễn Quận công đặt phục binh đón đợi quân Mạc ở Kẻ Dải. Trịnh Văn Hải đêm nằm mơ thấy một vị thần thấp lùn như cực kỳ to lớn bảo: “Ngày mai giặc tất chết ngay ở khúc sông này”, Văn Hải hỏi: “làm thế nào để thắng giặc”, Thần đáp: “Đoản kiếm trảm trường xà” (Gươm ngắn chém rắn dài). Sáng dậy Văn Hải tìm hỏi xung quanh đây có vị thần nào thiêng nhất? Dân làng đáp: “chỉ có vị Thạch linh thần tướng đời nhà Lý từng giúp vua Lý đánh giặc Chiêm Thành”. Trịnh Văn Hải gật đầu chứ không nói gì, sắm lễ lên cầu nguyện Thạch Linh Thần rồi Ông bí mật chia thủy binh ra từng toán nhỏ nấp sẵn trong rừng lác và bụi cây hai bên bờ sông, trưa hôm sau đoàn thuyền Mạc Ngọc Liễn đến khúc sông thắt cổ bầu th dừng lại tìm cách vượt qua nước cạn, thủy binh Mạc đang nhích lên từng bước, bỗng hai bên bờ sông gươm giáo ầm ầm, lẫm tiếng reo vang dậy, quân Lê đổ ra đông nghịt. Đoàn thuyền Mạc trải dài trên khúc sông cong như con rắn lượn bị quân Lê chặn đầu, khóa đuôi, băm chặt từng khúc, Mạc Ngọc Liễn đi sau may thoát nạn. Khi vua Lê trở về kinh thành Thăng Long các vị thần trong nước có công giúp nhà Lê đều được phong tặng Thạch Linh thần tướng, được tiến phong làm Thạch Trụ Đại Vương với bốn chữ “Bảo quốc hộ dân” rồi thêm mấy chữ “Dực Bảo Trung Hưng tôn thần”.

Các cụ xa xưa truyền rằng, làng Cổ Dải đời Lê Hiến Tông do lụt lội đói khát phiêu tán nhiều nơi, đến Tây Sơn mới nhóm họp lại, làng vẫn thờ Thạch Trụ Đại Vương làm thần chính. Khi các làng Ngọc Bồn, Bình Nậu thành lập làng có thờ thần riêng thì Thạch Trụ Đại Vương là thần thượng đẳng nên được làm vị thần đứng đầu các vị thần trong .

Năm 1887, hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi, đô đốc Nguyễn Ngọc Lưỡng khởi binh ở núi Hòa Trường, ông đón đánh giặc tại bến đò sông Ghép bị thất bại phải rút về núi Hòa Trường cố thủ, ông Trịnh Định Chính là tham mưu nghĩa quân, người làng Ngọc Đới đêm mộng thấy Thạch Trụ Đại Vương đứng ở cây đa thờ chỉ tay về hướng Tây Nam, ông tỉnh dậy bàn với đô đốc Nguyễn Lưỡng “Quân ta đóng ở đây có núi, có sông, nhưng núi không cao, sông không hiểm, giặc kéo đến đánh thì chống giữ khórút đi, chi bằng liệu kế trước thì hơn” rồi tham mưu Trịnh, đô đốc Nguyễn họp quân tại gốc đa thờ khấn Thạch Trụ Đại Vương, thề đánh tan giặc Tây, sau đó đưa quân vượt sông sang địa phận huyện Nông Cống tiến về phía Tây Nam hợp binh với đô đốc Nguyễn Phương ở căn cứ địa Ổn Lâm để tính kế lâu dài.

Tính từ khi nhóm người lập nên ấp trại, hợp dân thành làng xóm đến nay Ngọc Đới đó lịch sử hơn một ngàn năm, Cây đa được trồng ngay từ buổi đầu, một nhóm người tới đây khai hoang vỡ rậm, nó là cuốn sử biên niên, là nhân chứng sống mói của ngàn năm lịch sử, Ngọc Đới biết bao chìm nổi, tan hợp, hợp tan. Bên cạnh cây đa thờ là hòn đá linh thiêng ngàn năm còn tỏa sáng, sáng mãi trong tâm linh người dân Ngọc Đới và nhân dân xã Quảng Phúc như hòn ngọc trường tồn cùng với sông Đai Ngọc, đem lại niềm tin hạnh phúc rộng lớn cho nhân dân Quảng Phúc.

Cách đây mấy chục năm cây đa thờ Ngọc Đới đã theo quy luật tự nhiên mà biến đổi, nhưng cũng theo quy luật sinh sinh, hóa hóa, có có, không không, từ gốc lại mọc lên chồi xanh để hôm nay trở thành cặp song thụ (hai cây đã tỏa bóng sum xuê) đưa bóng mát đến đường thôn ngõ xóm, đến với lòng mọi người dân Quảng Phúc.

Thạch Trụ Đại Vương là một vị thần khá đặc sắc, xuất thân từ một hòn đá lăn. Thần không phải là cái cao xa mà ở ngay bên cạnh người mãi mãi, bình dị như gốc cây, như hòn đá, người dân Quảng Phúc đã sáng lập một vị thần riêng của mình mà nhiều nơi không có. Về công tích, thần cũng bảo dân, hộ quốc, yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, đánh Pháp, đánh Mỹ, Thạch Trụ Đại Vương đã phù hộ bao con em trong làng ra đi chân cứng, đá mềm và Ngọc Đới nói riêng, và Quảng Phúc nói chung vững như “Thạch Trụ” muôn đời ở đầu sóng, ngọn gió này, trong những cuộc thăng trầm của quê hương đất nước, vấn đề thật khó mà lý giải. Song, một điều khẳng định là sức mạnh thần kỳ của cách mạng đó biến đổi đến cả cuối bãi, đầu sông, để Ngọc Đới - Quảng Phúc hôm nay ngàn lần khác ngày xưa, đồng sác, đồng sông tôm cá dẫu ít đi nhưng cây cói, cây lúa tốt tươi mùa màng no ấm trong một vùng đang ngời sáng, rực rỡ đi lên theo đà phát triển chung công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trong niềm vui hôm nay người dân làng Ngọc Đới, xã Quảng Phúc nhớ về ngọn nguồn càng không thể quên một hình tượng thần thoại nguyên sơ kỳ vĩ.

"Thạch Trụ Đại Vương" là ngọn lửa niềm tin trong bóng tối những đêm dài thế kỷ thời phong kiến đế quốc. “Thạch Trụ Đại Vương” là sản phẩm của nền văn hóa bản địa tôn thờ nhng nhân vật có công với dân, với nước là đạo lý người Việt, là đặc trưng của nét văn hóa dân tộc mấy ngàn năm trường kỳ chống lại âm mưu đồng hóa và văn hóa ngoại lai xâm nhập. Đứng về góc độ dân tộc học Quảng Phúc đó bảo lưu một loại hình tín ngưỡng phồn thựcThờ sinh, thực khí có nguồn gốc nguyên thủy, rất hiếm thấy trong phạm vi toàn tỉnh Thanh Hóa, chỉ thấy ở vài nơi nhưng hiện nay không còn nữa.

Riêng “Thạch Trụ Đại Vương” không hề biến đổi theo thời gian “Thần vẫn nguyên vị” ngàn năm bất chấp bão giông, mặc cho nắng dãi, mưa dầm, nhưng vẫn sống cùng người dân Quảng Phúc trong tiến trình xây dựng mảnh đất dải thắt lưng, thật sự là mảnh đất Đai Ngọc lấp lánh trong thời kỳ đổi mới đất nước.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân, năm 1998 đền thờ Thạch Trụ Đại Vương đó được xây dựng phía trước làng Ngọc Đới bên cạnh cây đa cổ thụ tỏa bóng sum xuê. Đền được xây dựng với kiến trúc kiểu chữ Đinh (J), ngày 18 tháng 6 năm 1998 được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 181/QĐ - VHTT. Năm 2008, đền bị xuống cấp, được sự đồng ý của Ban quản lý di tích thắng cảnh Tỉnh, được sự hỗ trợ của nhà nước và đóng góp của nhân dân trong xã, Đền được xây dựng lại khang trang và vững chắc hơn.

Hàng năm cứ vào ngày mồng 10 tháng Giêng, nhân dân con cháu trong học tập, công tác ở xa và du khách thập phương lại tập trung về Đền cùng lễ hội tế thần Thạch Trụ Đại Vương. Ngoài ra vào các ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng, nhân dân trong đến thắp hương cầu may mắn trong làm ăn và gia đình luôn được mạnh khỏe. Nhân dân trong xã luôn tự hào về vị thần của quê hương mình.

 


 

 

MỘ VÀ ĐỀN THÁI TỂ BÙI SỸ LÂM

(Xã Quảng Tân)

 

Làng Đắc Thọ x­ưa thuộc xã Lư­u Vệ, huyện Quảng X­ương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Theo gia phả họ Bùi Sỹ để lại thì làng này có từ thế kỷ thế thứ XIII - vào thời nhà Trần, gồm các làng: Làng Phú Đa, làngTrung thôn (Đắc Thọ ngày nay), làng Nhân Hậu (làng Dục Tú ngày nay), thuộc đất L­ưu Vệ cũ, nay đều thuộc xã Quảng Tân, huyện Quảng Xư­ơng, tỉnh Thanh Hóa.

Lớp cư­ dân đầu tiên của dòng họ Bùi Sỹ đến mảnh đất L­ưu Vệ sinh sống vào khoảng năm 1430 trở về sau. Ngày nay làng Đắc Thọ gồm các thôn: Tân Đắc, Tân Thượng (Tân Th­ượng 1 thuộc Quảng Tân, Tân Th­ượng 2 thuộc Thị trấn Quảng X­ương).

      Căn cứ vào văn bia, phủ thờ Thái tể Bùi Sỹ Lâm đư­ợc vua Lê - Chúa Trịnh ban cấp cho tiến hành xây dựng vào năm Vĩnh Tộ thứ 10 Quý Mùi (1643) trư­ớc khi ông mất 15 năm. Ngày 8 tháng 3 năm MậuThìn (1628), năm thứ 10 Vĩnh Tộ. Sau khi ông mất Nhà vua cho tổ chức tang lễ theo nghi thức quốc gia. Phần mộ còn ở phía sau nhà thờ gần hậu cung, phủ thờ tọa lạc trên một vùng đất cao, tọa Bắc nhìn về h­ướng Nam nơi có con đ­ường Tân Trạch chạy qua, xung quanh là đồng lúa xanh rờn, cây cối quanh năm t­ươi tốt. Phía Đông là con sông nhỏ chảy từ đập Bái Th­ượng chảy về. Xung quanh là hàng rào có sân rộng lát gạch đỏ, có nghi môn gồm một cổng chính và 2 cổng phụ.

      Thái tể Bùi Sỹ Lâm sinh năm Tân Tỵ (1551), mất năm Mậu Thìn(1643) khi đang còn tại chức, h­ưởng thọ 92 tuổi. Ông sinh ra tại xã Lư­u Vệ, huyện Quảng X­ương, phủ Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay). Lúc còn nhỏ đ­ược cha mẹ cho đi học văn, luyện võ, học binh pháp, vốn là người tinh thông từ văn ch­ương chữ nghĩa đến cung kiếm, có tài thiên bẩm về quân sự, tính tình của ông quảng bá, độ l­ượng nên được bạn bè mến mộ. Sau khi thi đỗ tam trường ông chuyển hẳn theo nghiệp binh.

Trong công cuộc trung hưng nhà Lê, có sức đóng góp chung của các tầng lớp nhân dân, trong đó, có công đóng góp của Bùi Sỹ Lâm. Ông là một công thần có công với đất nước, văn võ song toàn, và là nhà chính trị quân sự vào thế kỷ XVII. Những hoạt động của ông đã để lại những dấu ấn trong lịch sử, có ý nghĩa quốc gia. Do những đóng góp to lớn ông đã đ­ược triều Lê Trung hưng giữ lại làm việc cho đến phút chót cuộc đời và đ­ược triều đình phong tặng nhiều chức vụ quan trọng:

- Chức nội giám, Tổng thái giám kiêm các giám ty.

      - Trung quân đô đốc phủ, th­ượng t­ướng quân, th­ượng trụ quốc.

      - Nhạc quận công; Tả t­ư mã, thiếu bảo, thái bảo, thiếu úy.

      - Tự khiêm cung, Thái tể, thụy Quảng Thành t­ướng công;

      - Gia phong thái phó, gia phong Thành Hoàng đại vư­ơng.

Mộ và đền thờ ông Bùi Sỹ Lâm: mộ và đền đ­ược xây dựng ở giáp giới giữa hai xã Quảng Tân và xã Quảng Trạch, cách Thành phố Thanh Hóa 8km về phía Nam. Là Đền nh­ưng nhân dân quen gọi là Phủ thờ (vì khi đ­ương chức Ngài đ­ược vua Lê - Chúa Trịnh cho lập phủ riêng). Phủ thờ đ­ược bố trí theo kiểu nội công ngoại quốc, hậu cung có đặt bài vị, t­ượng bằng gỗ theo chân dung Bùi Sỹ Lâm. Phía ngoài là tiền đ­ường có đôi hạc cao hơn đầu ng­ười chầu hai bên, có đôi ngựa gỗ giống như­ ngựa thật. Trải qua năm tháng chiến tranh, sự tàn phá của thiên nhiên, thăng trầm của lịch sử và thời gian, đến năm 1961 phủ thờ chỉ còn lại là một khu đất trống, còn lại tấm bia đá có niên đại 1628. Trư­ớc kia phủ thờ làm bằng gỗ lim nhà ngói 5 gian, hậu cung bài trí rất đẹp, có các linh vật thờ cúng theo nghi lễ thời Lê Trung hưng. Do thiên tai tàn phá và do biến động thời gian đến năm 1961 chỉ còn lại một khoảng đất trống, còn lại ngôi mộ, tấm bia đá bị nằm nghiêng và một số linh kỷ vật khác.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đời sống của bà con trong dòng họ được cải thiện dần lên. Bà con trong họ tìm mọi cách s­ưu tầm tài liệu về thân thế sự nghiệp Thái tể Bùi Sỹ Lâm, họ Bùi Sỹ còn l­ưu giữ tại nhà tr­ưởng họ và các nhà thờ chi một phần gia phả họ Bùi Sỹ bằng chữ Hán, các sắc phong thời Lê Cảnh Hư­ng, Tự Đức, Khải Định, Thành Thái, Duy Tân... và một bản: "Lịch sử họ Bùi Sỹ xã Lư­u vệ, huyện Quảng X­ương, tỉnh Thanh Hóa" từ năm 1952 còn l­ưu lại cho đến ngày nay. Cả dòng họ Bùi đã phát động phong trào đóng góp công sức, tiền của, xây dựng phủ thờ để di tích khang trang hơn.

Tháng Giêng năm 1994, tạo dựng nhà bia, bia đ­ược chế tác từ loại đá quý thành một phiến đá nguyên, có kích th­ước cao 1m85 rộng 1m20, dày 0,50m, chạy suốt 3 cạnh bia là đ­ường diềm hoa cúc dây chóp, bia chạm hình 2 con rồng chầu nguyệt, cả 2 mặt bia đều khắc chữ Hán.

Tháng 10 năm 1995, tôn tạo chính tẩm, xây t­ường rào, xin lại khu đất tọa lạc Phủ thờ gần 4.000m2.

Tháng 2 năm 1997, tôn tạo tiền đ­ường gồm 1 nhà gỗ lim 5 gian, 4 vì kèo, còn lại gạch tường, tất cả các vì kèo kiến trúc theo kiểu trồng r­ường bẩy kẻ, chạm trổ hoa lá, rồng phượng ... tiền đ­ường và hậu cung lợp ngói mũi, cánh cửa theo kiểu nhà thờ thời Lê Trung h­ưng.

Tháng 12 năm 1998: tôn tạo nghi môn (cửa chính), hoàn tất căn bản các việc mua sắm, s­ưu tầm nhà thờ và các linh kỷ vật khác, lát lại sân.

Năm 2008, xây 2 cổng phụ nghi môn.

Công trình tôn tạo nhà thờ, lăng tẩm và các di sản khác thuộc phủ thờ Thái tể Bùi Sỹ Lâm đã đ­ược tiến hành trong 20 năm và đã cơ bản hoàn thành. Trong quá trình đó có sự ủng hộ, giúp đỡ của các cơ quan Đảng, Nhà n­ước, UBND xã Quảng Tân và xã QuảngTrạch, bà con khu vực xung quanh khu di tích công trình mộ và đền Bùi Sỹ Lâm.

Từ Hậu cung ra ngoài tiền đ­ường có Ngai thờ, t­ượng thờ Thái tể ở tư­ thế ngồi đ­ược đặt trên một bệ lớn; đài lớn, đài nhỏ, cây nến lớn, lư­ h­ương, hòm sắc phong. Giữa hậu cung và tiền đ­ường là 2 ông phỗng đá; hòm sắc phong gồm 8 sắc phong; 1 bộ chấp kích gồm 8 loại binh khí bằng gỗ giống như­ thật đ­ược đặt trên giá lớn. Ngoài tiền đư­ờng có đại tự “Bảo Quốc hộ dân”ở chính giữa, hạc gỗ cao hơn đầu ng­ười, đôi ngựa gỗ cao to bằng ngựa thật, h­ương án, bàn thờ lớn, bàn thờ nhỏ, câu đối, bộ tranh tứ quí, trống cái, trống nhỡ, kiệu lớn, đôi độc bình gốm sứ Bát Tràng giả cổ “Tùng Chùa” cao 2,1m – rộng 0,65m và chum sứ Bát Tràng giả cổ.

Hằng năm cứ đến ngày 15 tháng Giêng Âm lịch dòng họ Bùi Sỹ tiến hành lễ tế Tam tôn (cúng các thần linh: Thiên phủ - Địa phủ-Thủy phủ) để tạ ơn các vị thần linh đã phù hộ cho đoàn quân do ngài Bùi Sỹ Lâm chỉ huy, xung trận dẹp giặc thắng lợi; ngày mồng 8 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ ngài Bùi Sỹ Lâm.Vào những ngày này, các thế hệ hậu duệ có mặt ở bốn ph­ương về thăm quê mẹ, r­ước kiệu từ làng ĐắcThọ đến Phủ thờ Ngài, thắp nén h­ương trên bàn thờ tiên tổ, gặp nhau tay bắt mặt mừng, ngầm dặn dò nhau gìn giữ nếp nhà, đức họ, phát huy truyền thống quê h­ương. Cũng vào những ngày này họ cũng hay tổ chức các trò vui như­ đấu vật, múa lân, đấu cờ ng­ười và các trò chơi khác. Nhân dịp này ban khuyến học của dòng họ tặng quà và biểu d­ương thành tích học tâp của các cháu học sinh giỏi, học sinh tiên tiến, các cháu thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, các cháu đậu vào các trư­ờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Món quà tuy nhỏ nh­ưng đã có tác dụng khích lệ các cháu và các bậc phụ huynh khắc phục khó khăn v­ươn lên trong học tập; danh sách các cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ ngày càng dài thêm. Các hoạt động trên dần dần đi vào nền nếp, phủ thờ được mở cửa th­ường xuyên, vào các ngày mồng 1, ngày 15 (tức ngày rằm), phủ thờ Thái tể trở thành trung tâm của các sinh hoạt tâm linh của con cháu trong dòng họ và bà con trong vùng.

Đức Thái tể Bùi Sỹ Lâm là một nhà chính trị quân sự ở nửa đầu thế kỷ thứ XVII, những hoạt động của ông có ý nghĩa trong phạm vi quốc gia. Những bia ký, phủ thờ trên quê h­ương Bùi Sỹ Lâm còn là tấm g­ương sáng về sự rèn luyện tu thân, chí công vô tư­, được các triều đại nhà nư­ớc phong kiến Việt Nam từ thời Lê Trung hư­ng đến nhà Nguyễn, và đến nay nhân dân đều rất ngư­ỡng mộ. Do đó đây là khu di tích lịch sử l­ưu niệm danh nhân. Khẳng định công lao to lớn của ông Bùi Sỹ Lâm đối với đất nư­ớc và không gian văn hóa đã có đ­ược, ngày 04/05/1995 mộ và đền Bùi Sỹ Lâm xã Quảng Tân đ­ược công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh. Bộ trưởng bộ Văn hóa Thông tin đã ký Quyết định số 02/QĐ - BVHTT ngày 26 tháng 1 năm 1999 cấp bằng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia Mộ và đền Bùi Sỹ Lâm. Để vinh danh tên tuổi và sự nghiệp của ông, năm 2009 HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ra quyết định đặt tên một con đ­ường ở thành phố Thanh Hóa mang tên Đư­ờng Bùi Sỹ Lâm.

 

 

 


 

 

ĐỀN THỜ VÀ BIA MỘ QUẬN CÔNG LÊ BÙI VỊ

 (Xã Quảng Tân)

 

Ở xã Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia trước đây, nay là xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, còn lưu giữ được ngôi đền thờ, bia mộ Quận công Lê Bùi Vị (tức Lê Bá Trí) - người có công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ thời Lê Trung hưng.

Lê Bùi Vị (hay Lê Bá Trí) - người làng Nhân Hậu, xã Lưu Vệ, tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nay là làng Dục Tú, xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 27 tháng 10 năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hòa thứ 14 (1693), đời vua Lê Hy Tông (1676 – 1705 ). Ông là con thứ hai của đức khởi tổ dòng họ Lê Bá là Lê Bá Trực và mẹ là Bùi Thị Nghiêm. Để nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ, ông đã thay chữ Bá thành chữ Bùi (tên họ của mẹ), nên gọi là Lê Bùi Vị.

Vào niên hiệu Bảo Thái thứ 3 (1722), đời vua Lê Dụ Tông (1705 – 1729), Lê Bùi Vị được tuyển vào làm quan Thái giám với chức Thị nội giám. Năm Bảo Thái thứ 6 (1725), Lê Bùi Vị thi cử võ, được phong làm Võ tướng kiêm các chức Đô đốc phủ, Đô đốc Đồng tri, Đô đốc Thiêm sự, kiêm chức Ty lễ giám, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân. Năm Bảo Thái thứ 10 (1729), Ông được vinh phong Tả Đô đốc.

Năm 1740, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 6, đời vua Lê Ý Tông (1735 – 1740), Ông được phong thêm chức Thị vệ Uyển nhị đội (chức chỉ huy đội quân bảo vệ, kiểm soát cung Vua, phủ Chúa). Trong thời gian này, chúa Trịnh Giang lộng quyền vua Lê quá nhiều, việc triều chính thì bê trễ. Trước tình trạng đó, Lê Bùi Vị đã cùng 13 vị quan lớn trong triều phế truất Trịnh Giang, đưa Trịnh Doanh lên nắm chính quyền.

Cũng trong năm 1740, Đô đốc Thái giám Lê Bùi Vị lập được hai chiến công lớn trong việc dẹp loạn. Thời kỳ này các cuộc nổi dậy khởi nghĩa của nông dân nổ ra ở nhiều nơi, chúa Trịnh Doanh thân chinh dẫn quân đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của Nguyễn Tuyễn, Vũ Trác Oanh ở Hải Dương, Hoàng Công Chất, Vũ Đình Dung ở Sơn Nam (Nam Hà, Thái Bình, Hưng Yên). Chúa Trịnh Doanh cùng các tướng lĩnh của mình trong đó có cụ Lê Bùi Vị chọn cuộc nổi dậy của Vũ Đình Dung làm mục tiêu tấn công trước (còn gọi là giặc Ngân già) và đã dẹp yên được cuộc nổi dậy. Cũng trong thời gian này loạn quân (quân khởi nghĩa) kéo đến Bồ Đề đánh phá, uy hiếp Thăng Long. Kinh thành Thăng Long trong thế nguy cấp, Đô đốc Lê Bùi Vị dẫn quân Thị vệ trong đêm tối đánh tan quân địch, lập công lớn.

Do có nhiều công lớn, nên trong ngày lên ngôi của vua Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Doanh đã tấu trình lên vua Lê phong thưởng cho Lê Bùi Vị chức Đô đốc Thái giám Thượng trụ quốc Dực Quận công.

Đến năm 1761, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786), Quận công Lê Bùi Vị được Nhà vua cho về quê nghỉ dưỡng tuổi già. Những năm nghỉ hưu, ông đã dồn hết tâm sức vào việc chăm lo đến cuộc sống của dân làng, dạy bảo con cháu trong dòng tộc. Ông đã làm bản tấu lên Vua để xin phong sắc, tước cho anh em và các con nuôi; lập bản kê khai ruộng đất, tài sản của ông, chia 50 mẫu đất, tiền bạc cho anh em, con cháu trong họ (con trai từ 8 tuổi trở lên). Đối với dân làng trên xóm dưới, ông đã dành 30 mẫu đất chia cho các làng hậu kỵ thuộc xã Lưu Vệ và xã Hoàng Thanh để cày cấy. Các bản tấu và kê khai trên đều được vua Lê Hiển Tông chẩn tấu, phê duyệt. Hiện tại, dòng họ đang lưu giữ các văn bản trên.

Quận công Lê Bùi Vị mất ngày 9 tháng 8 năm Giáp Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 35 (1774), Nhà vua ban sắc phong tặng là: Trung Đẳng Phúc Thần,với các mỹ tự Địch Trung Hiển Thánh, Anh Liệt Linh Sảng, Thần Uy Đại Vương, Dực Bảo Trung Hưng tôn thần rồi Đôn Ngưng tôn thần, Linh Phù tôn thần, Quang ý Đại vương tôn thần. Nhà vua còn sai dân địa phương lập đền thờ phụng ông theo điển phép của nhà nước. Các triều Vua về sau đều có ban sắc phong tặng. Dân địa phương có bản tấu lên nhà vua về việc tôn Lê Bùi Vị làm Hậu Thần của xã Lưu Vệ. Theo nhà nghiên cứu Hà Nội học Nguyễn Vĩnh Phúc (Hà Nội) cho biết: Ở xã Quỳnh Đôi, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long trước đây có đền thờ Quận công Lê Bùi Vị và dân chúng trong vùng tôn ông làm Phúc thần.

 Đền thờ Quận công Lê Bùi Vị được xây dựng năm 1777 thuộc làng Trung Thôn (tức Thượng Thọ - Đắc Thọ ngày nay).Theo lời các cụ cao niên trong làng xã cho biết: Sau khi Quận Công Lê Bùi Vị mất, dòng họ và các làng Hậu kỵ đã xây dựng đền thờ ông tại đất làng Trung Thôn với diện tích 12 sào = 6.000m2, gọi là đền Từ Chỉ. Ngôi đền nhìn về hướng Nam. Quy mô cấu trúc ngôi đền theo kiểu: “Tiền Nhất – Hậu Đinh” (phía trước theo kiểu chữ “Nhất” (- ), phía sau kiểu chữ “Đinh” (J ), gồm có Tiền đường (5 gian), Trung đường (3 gian), Hậu cung (2 gian ) mái vòm cuốn. Ngoài ra, còn có Bái đường (sân), nghinh môn, chung quanh đền có nhiều cây cổ thụ. Các vì kèo làm bằng gỗ lim, tường nhà xây gạch, mái nhà lợp ngói mũi. Bờ nóc trang trí “Lưỡng Long chầu nhật” (Rồng chầu mặt trời). Trong đền bài trí nhiều đồ thờ như: Sắc phong, Long ngai, bài vị, bộ bát bửu, kiệu long đình, kiệu bát cống, có nhiều con giống đá như voi, ngựa, nghê... Còn có ruộng nhà đền (khoảng 1 mẫu) để thủ từ canh tác lấy sản vật cúng tế hàng năm.

Về ngôi mộ của Quận công Lê Bùi Vị, theo lời truyền lại: ngôi mộ táng theo kiểu “Thượng sàng – Hạ mộ” (trên là nhà, dưới là mộ). Vị trí ngôi mộ nằm ở nhà Hậu cung (Hậu cung đè lên 1/2 ngôi mộ).

 Về sau, ngôi đền bị đốt cháy, nhiều đồ thờ như sắc phong thời Lê, kiệu bát cống, lộng, kích, kiếm thờ cũng bị thiêu trụi. Đến năm 1848,thời vua Tự Đức triều Nguyễn, xã trưởng xã Lưu Vệ có tờ tấu trình lên Nhà vua xin cấp sắc phong cho Lê Bùi Vị. Trong bản tấu nói rõ là ngôi đền bị quân Tây Sơn đốt (Tờ sắc này hiện nay vẫn còn). Dưới thời Nguyễn, đền thờ Quận công Lê Bùi Vị được xây dựng lại trên nền đất cũ. Vào những năm 1963 - 1964, ngôi đền bị phá bỏ hoàn toàn, chỉ còn lại mộ, đất đai của đền thờ chia cho các hộ dân. Năm 1995, con cháu trong dòng tộc đã chuộc lại khoảng 300m2 đất và xây lại đền thờ Lê Bùi Vị để có quy mô như hiện nay. Ngôi đền ngoảnh mặt về hướng Tây, bố cục theo kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường (3 gian) và chính tẩm (2 gian). Trong đền bài trí ban thờ Lê Bùi Vị, hai bên là ban thờ các bậc tiên liệt Chi 2. Ngoài ra, còn có ngai thờ bằng đá được chạm trổ tinh xảo, bát hương bằng đá,đại tự,câu đối, sắc phong, bia ký... Hàng năm, vào ngày mất của Quận công Lê Bùi Vị (mùng 9 tháng 8 Âm lịch), con cháu dòng họ tổ chức tế lễ trọng thể.

Đền thờ, bia mộ Quận công Lê Bùi Vị (tức Quận công Lê Bá Trí) đã được Sở Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 69 ngày 21 tháng 9 năm 1998. Hiện nay, di tích đã được tu bổ tôn tạo khang trang.

     


 

 

TỪ ĐƯỜNG DÒNG HỌ LÊ THIÊN

(Xã Quảng Tân)

 

Từ đường dòng họ Lê Thiên ở xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, là nơi thờ các vị tiên hiền dòng họ Lê, trong đó có tướng quân Lê Đình Niếp - người đã có công phò tá giúp việc nhà Lê Trung hưng cuối thế kỷ XVI.

Dòng họ Lê Thiên nay, trước đây là Lê Đình chính gốc ở tỉnh Hưng Yên. Tương truyền vào năm đầu thời nhà Tiền Lê (980 – 1009), giặc Tống ồ ạt kéo quân sang xâm lược nước ta, Lê Đại Hành Hoàng đế kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc, cứu nước. Bấy giờ, ở tỉnh Hưng Yên có bốn anh họ Lê Đình là Lê Đình Trạch, Lê Đình Trúc, Lê Đình Thiết, Lê Đình Luân tham gia quân ngũ. Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược giành thắng lợi, Nhà vua đã ban hành nhiều chính sách nhằm xây dựng đất nước hùng mạnh, trong đó có chính sách cho binh lính về quê hương bản quán làm ăn sinh sống. Bốn anh em họ Lê Đình được Nhà vua khao thưởng và cho trở về quê hương. Nhưng cả bốn ông không trở về quê cũ mà đến địa phận huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa làm nghề rèn kiếm sống. Chín năm sau các ông lại chuyển về địa phận Hậu Lộc sinh sống. Không được bao lâu, do cuộc sống khó khăn, bốn anh em lại quyết định tìm vùng đất Câu Bái, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia để khai phá đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Từ đó, con cháu ngày càng đông đúc, xóm làng ngày thêm trù phú. Bốn năm sau, ông Lê Đình Luân được cử về Hưng Yên đem thêm 4 gia đình nữa về Câu Bái (Dục Tú ngày nay) sinh sống. Trong tiến trình lịch sử, cộng đồng cư dân Câu Bái đã đoàn kết, đồng tâm hiệp lực chống chọi với thiên nhiên, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm để xây dựng và bảo vệ đất nước, quê hương.

 Vào thời Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê và xảy ra cuộc nội chiến Lê – Mạc, dòng họ Lê Đình (tức Lê Thiên ngày nay) có ông Lê Đình Niếp tham gia phò Lê diệt Mạc. Theo Gia phả, sắc phong và văn bia còn lại đến nay cho biết: Ông Lê Đình Niếp cùng thời với Thái tể Bùi Sỹ Lâm, và là anh em con dì, ông Niếp hơn ông Lâm 9 tuổi, hai ông cùng là võ quan trong quân đội phò Lê diệt Mạc. Trong giai đoạn 1557 – 1600, d­ưới triều Lê Anh Tông (1557 – 1573) và Lê Thế Tông (1573 – 1600), ông Lê Đình Niếp được Nhà vua sai phái theo Chúa Trịnh tiến đánh quân Mạc ra khỏi kinh thành Thăng Long, dồn ép truy kích quân Mạc xuống Hải Phòng, Hải Dư­ơng. Trong một trận đánh ở trận tuyến Kiến An - Phố Hiến - Hải Phòng, tướng quân Lê Đình Niếp bị trọng thương, rồi mất ngày 15 tháng 5 năm 1590. Nhà vua ban sắc truy tặng t­ướng quân Lê Đình Niếp tư­ớc Hầu. Các triều vua về sau đều ban sắc phong tặng.

Để ghi nhớ công lao huân nghiệp của tướng quân Lê Đình Niếp, dân chúng trong vùng cùng con cháu dòng họ Lê đã xây dựng nhà thờ và hương khói bốn mùa không dứt.

Nhà thờ họ Lê Thiên tr­ước kia đã bị hoả hoạn. Đến năm 1941, ông Lê Thiên Cam cung tiến mảnh đất diện tích 155m2 ở giữa làng làm nhà thờ, phía Bắc là đ­ường làng, phía Tây tr­ước nhà có ao, phía Đông và Nam là dân cư. Qui mô kiến trúc nhà thờ không lớn lắm, nghệ thuật kiến trúc điêu khắc không có gì đặc biệt. Số lượng hiện vật bài trí trong nhà thờ không nhiều.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, nhất là trong thời kỳ chống chiến tranh leo thang bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với Miền Bắc, tuy nhà thờ họ Lê Thiên không bị bom đạn phá hoại, nh­ưng đã được sử dụng làm nơi bán hàng của HTX, có thời kỳ được sử dụng làm lớp học cho các cháu học sinh trong xã. Đồ thờ chỉ còn lại 3 bát hương đá cổ, sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1743), thời vua Lê Hiển Tông và một số đồ thờ khác.

 Đến năm 1998, con cháu dòng họ đã trùng tu, nâng cấp nhà thờ và trang bị thêm nhiều loại đồ thờ tự như hương án, long ngai, bài vị, câu đối...Đồng thời, di chuyển mộ cụ khởi tổ Lê Đình Trạch ở bãi bùn lầy lội về khoảnh đất phía Bắc nhà thờ và xây cất nghiêm cẩn.

Di tích nhà thờ họ Lê Thiên đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh (theo Quyết định số 375/QĐ - VHTT ngày 23 tháng 11 năm 1998 của Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa).

 Hiện nay, di tích nhà thờ họ Lê Thiên đã và đang được cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, con cháu dòng họ và đông đảo nhân dân địa phương quan tâm gìn giữ và tu bổ tôn tạo. Hy vọng trong thời gian không xa, di tích này sẽ được tu sửa nâng cấp ngày một khang trang, góp phần thiết thực trong sự nghiệp giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa đối với thế hệ hôm nay và mai sau.

 


 

 

ĐỀN ĐỒN ĐIỀN

(Xã Quảng Thái)

 

Làng Đồn Điền thuộc xã Quảng Thái nằm ở vị trí vùng biển Bãi Ngang của huyện Quảng X­ương, cách trung tâm huyện 12 km về phía Đông Nam, phía Bắc giáp thôn Hiền Th­ượng, phía Tây giáp các thôn Mậu X­ương, L­ưu Hiền, Lịch Quang xã Quảng L­ưu, phía Nam giáp làng Hà Đông, xã Quảng Thái, phía Đông giáp biển Đông.

Làng Đồn Điền đ­ược lập dư­ới triều vua Lê Thánh Tông, lúc đầu mang tên Đồn Điền Sở thuộc tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa. D­ưới triều Nguyễn, Đồn Điền Sở được đổi thành xã Đồn Điền thuộc Tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xư­ơng.

 Làng Đồn Điền là một vùng quê nằm ở đồng bằng ven biển, địa hình đất đai tương đối bằng phẳng, hệ thống giao thông thuận tiện. Giữa làng có một con sông chạy qua phục vụ t­ưới tiêu cho hai vụ trồng trọt, sông ấy gọi là sông Rào, chảy h­ướng Nam - Bắc qua các xã từ Quảng Lợi đổ ra cống Tr­ường Lệ theo nguồn n­ước sông Mã. Cũng tại con sông này xư­a kia là nơi ghi nhận dấu ấn lịch sử của một thời đấu tranh anh dũng, cải tạo thiên nhiên, nhân dân vẫn th­ường gọi là con sông nhà Lê (Theo Nguyễn Danh Phiệt - Về con sông nhà Lê).

Theo sách ”Đại việt sử ký toàn th­ư(1) năm Tân Sửu (1481) vua Lê Thánh Tông xuống chiếu mở Đồn Điền là để dùng hết tiềm lực của nhà nông mở rộng nguồn tích trữ cho nhà n­ước. Làng Đồn Điền thành lập là chính sách tổ chức ”Ngụ binh ư­ nông” vừa sản xuất vừa chiến đấu của nhà Lê sơ. Tại nơi đây, việc khai khẩn đất hoang trở thành đất canh tác đều do binh lính đảm nhiệm, nhằm tự túc lương thực và nộp tô cho nhà n­ước, đồng thời binh lính còn có thêm nhiệm vụ trấn áp trộm cư­ớp, bảo vệ trị an địa ph­ương.

 Nguồn gốc dân chúng ở làng Đồn Điền gồm nhiều loại: Từ binh lính, dân l­ưu vong, tù binh, ngư­ời không có nghề nghiệp hợp thành. Đến ngày nay có gần 30 họ tộc.

Ruộng đất ở Đồn Điền ban đầu đ­ược xác lập là 132 mẫu, 6 sào, 5 th­ước, 5 tấc do khâm sai nội giám, tổng tham tri giám sát Vũ Trung Kiên sai đại thần đo đạc. Ngoài việc khai phá ở Đồn Điền Sở, quân đội ”Ngụ binh ư­ nông” còn khai phá đất đai ở các vùng khác trong huyện như­: Lư­u Vệ, Thái Lai, Ngọc Giáp, Cô Đồng, Cô Bái, Du Vịnh, Tào Lâm. Số ruộng đ­ược xác lập trên cơ sở sổ điền bạ số 2 với diện tích 2432 mẫu, 5 sào, 9 thước, 8 tấc. Đến tháng 7 năm1954, làng Đồn Điền cùng với làng Hà Đông đ­ược tách ra từ xã Quảng Lộc thành lập xã Quảng Thái ngày nay. Dân số xã Quảng Thái đ­ược phân bố trên địa bàn 10 thôn thuộc hai làng Việt cổ là làng Đồn Điền nằm về phía Bắc và làng Hà Đông nằm về phía Nam.

Đền Đồn Điền thờ các vị thần:

- Đại càn quốc gia Nam Hải, Tứ vị thánh n­ương th­ượng đẳng phúc thần.

- Ông Tô Chính Đạo, ông Uông Ngọc Châu - Thành Hoàng làng

- Các vị tiên hiền có công với n­ước với dân, với làng.

Về lịch sử nhân vật Đại càn quốc gia Nam Hải, Tứ vị thánh nương sách “Thanh Hóa Chư thần lục”(1) ghi chép như sau: ThÇn lµ Hoµng HËu triÒu Nam Tèng. Khi vua §oµn T«ng nhµ Tèng bÞ ng­êi Nguyªn bøc b¸ch ph¶i nh¶y xuèng s«ng tù vẫn, råi x¸c tr«i d¹t ®Õn DiÔn Ch©u chç cöa biÓn Cµn H¶i, cã nhiÒu hiÓn øng linh dÞ lín. Nh©n d©n lËp ®Òn thê rÊt linh øng. C¸c triÒu vua Lª ®em qu©n ®i ®¸nh giÆc ®Òu ®­îc thÇn t¸n trî cho thµnh c«ng vµ phong lµ “Nam H¶i phóc thÇn”. C¸c triÒu ®¹i ®Òu cã phong tÆng.

Nhân vật Thành Hoàng Tô Chính Đạo và Uông Ngọc Châu: Dân làng còn tuyền rằng: khi đạo quân của Chánh sứ Tô Chính Đạo và Phó sứ Uông Ngọc Châu về lập đồn điền sở tại Quảng Thái, đóng đại bản doanh tại Ngõ Trại thuộc làng Đồn Điền ngày nay. Lúc bấy giờ vào kỳ giáp hạt, l­ương thực của triều đình ch­ưa đ­ưa về kịp, Chánh sứ đã sáng kiến đ­ưa quân binh về các làng phụ cận, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân. Đây là truyền thống đoàn kết quân dân cả nư­ớc của dân tộc ta.

Khi mất triều đình ghi nhớ công ơn, Chánh sứ Tô Chính Đạo, ban tặng sắc văn.

Nhân dân làng Đồn Điền lập đền thờ phụng.

- Tổng diện tích của đền Đồn Điền là 5 mẫu, hiện tại còn lại 800 m2. Đền đ­ược xây dựng 5 gian Tiền đ­ường theo kiểu chồng rường kẻ bẩy và một Hậu cung (Chính tẩm) nối với dãy nhà Tiền đường tạo thành kiến trúc hình chữ Đinh, Hậu cung đ­ược chia thành hai gian nối với Tiền đ­ường bằng ba cửa ra vào, hai bên Hậu cung có xây thêm hai cung nhỏ cuốn tò vò làm nơi phối thờ dòng họ có công với làng.

Do biến cố lịch sử và sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Đền chỉ còn lại một phần móng, đất đai của Đền cũng bị dân lấn chiếm làm đất ở. Năm 1982, Đền đ­ược nhân dân đóng góp xây dựng lại, đến năm (2008) nhân dân làng Đồn Điền đã công đức trùng tu lại Đền đảm bảo vững chắc lâu dài.

Hàng năm dân làng Đồn Điền ngoài tết âm lịch ra th­ường mở lễ hội vào các ngày mùng 1, 2, 3 tháng hai (Âm lịch), nhân dân quen gọi là ăn tết lại. Tục truyền, khi hai ông Tô Chính Đạo và Uông Ngọc Châu chỉ huy thắng trận trở về thì đã qua tết Âm lịch, các ông xin phép Nhà vua cho ăn tết lại để vừa khao thưởng quân sỹ, vừa ăn mừng chiến thắng. Từ đó lễ hội đ­ược tiếp diễn hằng năm như­ một nét đẹp văn hóa của quê h­ương.

Lễ hội đ­ược tiến hành cụ thể: Ngày mùng 1 tết khai xuân ở Đền để thỉnh Thần về ăn tết, sau khi r­ước xong tế kiệu để các vị Nam hải Đại v­ương, ông Tô Chính Đạo, Uông Ngọc Châu về Đình làng.

Ngày mùng 2 tế th­ượng điền tại Đình gọi là tế cầu nông, xong có tục cướp bông lúa.

Ngày mùng 3 r­ước bài vị các thần làng từ Đình ra ngõ ông Thày (trên bãi biển) để tế cầu ngư­, có lễ hội bơi thuyền trên biển.

Ngày mùng 4 các chức sắc và trai dịch r­ước kiệu về Đền.

Ngày nay Đình làng Đồn Điền không còn nữa nh­ưng lễ hội vẫn thực hiện: Ngày mùng một tế khai xuân và ngày mùng hai tế cầu nông tại Đền, ngày mùng 3 tế cầu Ngư­ tại bãi biển.

Đền Đồn Điền đã đ­ược xếp hạng di tích cấp Tỉnh theo Quyết định số 688/QĐ - VHTT ngày 01 tháng 11 năm 2002 của Giám đốc sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thanh Hóa. Nhân dân làng Đồn Điền vốn có truyền thống tốt đẹp ‘‘Uống n­ước nhớ nguồn", ghi nhớ những người công với đất nước với nhân dân, đặc biệt là những nhân vật có công dựng nên làng mình, dân làng đã lập nên đền Đồn Điền không những để tri ân, ghi nhớ công đức của họ mà còn là nơi giáo dục truyền cho các thế hệ con cháu mai sau.

 

 

 

 

 


 

 

ĐỀN ÔNG - LÀNG HÀ ĐÔNG

(Xã Quảng Thái)

 

Di tích lịch sử văn hóa đền Ông thuộc làng Hà Đông xã Quảng Thái, đ­ược xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 380/QĐ-VHTT ngày 25 tháng 9 năm 2000. Đền tọa lạc trên một khu đất rộng 1.360m2, ngay địa phận thôn 9 phía trung tâm của làng Hà Đông, quay mặt về phía biển.

Quá trình hình thành đền Ông gắn liền với một giai đoạn khai đất mở làng của người dân nơi đây để xây dựng nên một làng quê, xưa kia gọi là làng Biển, nay là làng Hà Đông. Biết bao biến cố đổi thay, biển tiến biển lùi, phong ba bảo tát, dân sống ngụ cư­ các làng lân cận, dấu tích còn lại cho đến ngày nay là mấy con đ­ường qua sông Rào ra biển đều mang tên:

             Ngõ Lê của làng Lê Hương

             Ngõ Nga của làng Nga My

             Ngõ L­ung của làng Lung Linh

Dân làng ở giáp bờ biển nh­ưng địa giới hành chính rất chật hẹp, mãi về sau nhờ có các bà Hậu Thông thuộc tầng lớp giàu có, lại không có ng­ười nối dõi, nên các bà tự bỏ tiền mua thêm đất của các làng bên cạnh, từ đó dân làng mới có thêm phần đất thổ cư­ và thêm đất mặt biển; ngày nay sử thi của Làng có câu rằng:

             "Tr­ước chiêu dân nhờ Hoàng Thủy Tổ

              Sau tậu hoang nhớ Cố Hậu Thông".

Vì đất đai làm ruộng không nhiều, cư dân lại sống gần biển nên nghề chính là đánh bắt cá biển bằng công cụ thô sơ. Khi đã an cư­ lạc nghiệp, tổ tiên nghĩ ngay đến việc lập Đền, Miếu để thờ các vị thần, mong cầu giúp dân, giúp nước. Đền Ông đ­ược thiết lập trong tâm thức để tôn vinh các vị thần.       

Nhân vật thờ

Theo truyền thuyết trong nhân dân, năm 1069, vua Chiêm Thành đem quân lấn chiếm biên giới phía Nam(1), Vua Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi ỷ Lan trông coi việc n­ước, rồi cùng Lý Th­ường Kiệt cầm quân đi đánh dẹp. Quân Đại Việt tiến vào thành Phật Thệ, bắt được vua Chiêm là Chế Củ và 50.000 quân. Chế Củ dâng ba châu là Địa lý, Ma Linh, Bố Chính để xin về n­ước. Sau khi chiến thắng quân Chiêm, đại quân khải hoàn trở về kinh đô, quân nhu khí giới thu được vận chuyển bằng đường biển do Phò Mã Đô uý Thành Quốc Công chỉ huy, không may chiếc thuyền gặp bão, vị tướng bị chết, xác trôi dạt vào bờ, nhân dân tổ chức chôn cất và lập đền thờ, dân tôn hiệu là Linh ứng Phò Mã Đô uý Thành Quốc Công Thượng đẳng thần triều đình ban sắc giao cho dân làng thờ cúng. Tên tuổi và công đức của ông được ghi trong văn bia tại Đền. (ngày nay bia đã bị đập chỉ còn lại một phần thân).

Nhân vật thứ hai được nhân dân rước thánh vị về thờ là Đại Càn quốc gia Nam hải Tứ vị Thánh Nương. Theo sách “Thanh Hóa chư thần lục(2): ThÇn lµ Hoµng HËu triÒu Nam Tèng. Khi vua §oµn T«ng nhµ Tèng bÞ ng­êi Nguyªn bøc b¸ch ph¶i nh¶y xuèng s«ng tù tËn, råi x¸c tr«i d¹t ®Õn DiÔn Ch©u chç cöa biÓn Cµn H¶i, cã nhiÒu hiÓn øng linh dÞ lín. Nh©n d©n lËp ®Òn thê rÊt linh øng. C¸c triÒu vua Lª ®em qu©n ®i ®¸nh giÆc ®Òu ®­îc thÇn t¸n trî cho thµnh c«ng vµ phong lµ “Nam H¶i phóc thÇn”. C¸c triÒu ®¹i ®Òu cã phong tÆng. Cũng ghi về lịch sử nhân vật này sách “Đại Nam nhất thống chí(3) chép: Có bốn mẹ con thuộc V­ương triều Nam Tống nhảy xuống biển tự tử, xác trôi dạt vào cửa biển Nghệ An, nhân dân tổ chức chôn cất chu đáo, nghi lễ đ­ược tổ chức trang nghiêm. Vì Tứ vị này rất linh thiêng, đ­ược triều đình sắc phong thành thần, cho phép thờ ở m­ười hai cửa biển Nghệ An - Thanh Hóa, với tôn hiệu là Quốc Mẫu Đại càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh n­ương th­ượng đẳng thần.

Nhân vật thứ ba được thờ là, Ng­ư Ông. Triều đình nhà Nguyễn, sắc phong là vị thần hộ mệnh của ngư­ dân vùng biển cho phép lập đền thờ, tổ chức lễ hội ở miền Duyên hải từ Nam đến Bắc với tôn hiệu là Đại thần quốc gia

Nam Hải Nhân Ng­ư Ông.

Nh­ư vậy, qua các dấu tích của lịch sử và sách vở ghi chép lại thì di tích lịch sử văn hóa đền Ông làng Hà Đông là di tích thờ ba vị thần như đã nêu ở trên, mỗi nhân vật gắn liền với những huyền tích hiển linh, âm phù nhân dân nhân khang vật thịnh, bình an khang cát trong cuộc sống.

Qui mô di tích.

Xưa kia di tích được xây dựng theo kiểu chữ Đinh (J), bao gồm một nhà tiền đường và một hậu cung, xây tường bao bít đốc. Trước đền là sân, nhai bên có tượng đá voi ngựa ở hai bên. Do di tích nằm sát biển nên những trận bão gió làm hư­ hỏng nặng. Ngày nay, chính quyền và nhân dân địa phư­ơng đã tôn tạo ngôi đền trên nền móng di tích tr­ước đây, kiến trúc vừa và nhỏ, bao gồm ba gian tường hồi bít đốc. Trong sân đền vẫn còn lại một số voi đá, ngựa đá quỳ chầu ở hai bên, nghệ thuật chạm khắc của các voi ngựa mang phong cách thế kỷ XIX.

Tổ chức lễ hội.

 Đền Ông tổ chức lễ hội Cầu phúc vào ngày 25 tháng Giêng âm lịch, lễ hội Cầu ngư­ tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Trư­ớc đây, các lễ hội này dân làng th­ường tổ chức các trò chơi, trò diễn dân gian như­: đánh đu, đánh cờ người, chơi bài điếm. Ngày nay do nền kinh tế phát triền, đời sống nhân dân tăng cao, nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng lớn, nhất là văn hóa tâm linh, việc khôi phục lại những truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của quê hương được đông đảo nhân dân cũng như bà con xa quê hưởng ứng. Các lễ hội Cầu phúc và lễ hội Cầu ngư­ của di tích được khôi phục lại, trở hành nét đẹp văn hóa cho các dòng họ, các chủ nghề, phư­ờng bạn, dân làng trong xã, ngoài xã, các con cháu, anh em tập hợp, chuẩn bị các lễ vật dâng lên trong ngày lễ cầu phúc, cầu ngư­ để tế thần, cầu mong cho dân làng được bình yên, ấm no, tai qua nạn khỏi, v­ượt qua muôn trùng sóng gió, cầu cho quốc thái dân an, nhân khang, vật thịnh.

Có thể nói, lần theo dấu vết của tiền nhân để tri ân phụng thờ và phát huy bản sắc văn hóa cổ truyền, phát huy tinh thần cách mạng, độc lập tự chủ, tự tôn dân tộc, làm cho nhân dân làng Hà Đông, nhân dân xã Quảng Thái đang công tác, học tập và sinh sống trên mọi miền của tổ quốc luôn h­ướng tâm linh về cội nguồn, luôn suy nghĩ làm việc thiện, có ý thức giữ gìn, xây dựng đền thành một di chỉ tôn nghiêm, một khu du lịch hấp dẫn, một điểm văn hóa kết hợp đầy đủ bản sắc cổ truyền và hiện đại, tạo dựng một làng quê trong lành, bình yên, thịnh vượng.

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

TỪ ĐƯỜNG CHI 3 DÒNG HỌ NGUYỄN ĐỨC

(Xã Quảng Thịnh)

 

Cách đây khoảng 5 thế kỷ, cụ thủy tổ của dòng họ Nguyễn Đức là cụ Phúc Nghĩa, đến khai hoang lập ấp tại xã Bất Quần (nay là xã Quảng Thịnh). Cụ sinh được 3 người con trai, tr­ưởng là Phúc Tâm, thứ Trung Cần, út là cụ Thanh Bằng.

Cả ba anh em đều được nuôi dạy ăn học tử tế, cụ Phúc Tâm học giỏi, đỗ đạt cao, được bổ làm quan ở tỉnh Bắc Ninh, và cụ trở thành cụ tổ của chi thứ nhất dòng họ Nguyễn ở tỉnh Bắc Ninh. Để nhớ về đất tổ ở làng Ngọc Am, con cháu của cụ Phúc Tâm đó lấy tên lót là Nguyễn Ngọc.

Cụ Trung Cần và cụ Thanh Bằng ở lại quê, lấy nghề nông tang làm nghiệp, hai cụ trở thành ông tổ của chi 2 và chi 3 dòng họ Nguyễn tại làng Ngọc Am - xã Bất Quần.

Cả 2 chi của dòng họ Nguyễn cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thập kỷ, trong quá trình phát triển, do cách đặt tên lót của các cụ xưa, từ Nguyễn Văn chi 2 đã có tên lót là Nguyễn Thế và chi 3 có tên lót là Nguyễn Đức. Nhưng cả 2 chi đều song hành thờ phụng tổ tiên của dòng họ Nguyễn.

Do điều kiện kinh tế không cho phép, chi 2 không xây dựng được nhà thờ tổ mà chỉ có con, cháu, chắt của cụ tổ Thanh Bằng xây dựng được từ đường của dòng họ và để lại cho con cháu ngày nay một di sản quý, được nhà nước xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.

Nhà thờ Chi 3 dòng họ Nguyễn Đức có niên đại vào cuối thế kỷ XVIII, mang kiến trúc nhà thờ cổ truyền của người Việt, do chính những thế hệ đầu tiên của Chi 3 dòng họ Nguyễn Đức xây dựng trên đất làng Ngọc Am - tổng Vệ Yên (nay là thôn Gia Lộc - xã Quảng Thịnh).

Nhà thờ này là nơi thờ tự những vị tổ thuộc 3 thế hệ đầu tiên của Chi thứ 3 dòng họ Nguyễn Đức, các cụ là những trí thức Nho học ở hương thôn vào những thế kỷ XVIII - XIX, không có chức tước, địa vị trong chính quyền đương thời, cuộc sống của những người trí thức hương thôn này cũng như những người nông dân, cày cấy tự nuôi sống bản thân, gia đình.

Bức linh vị viết bằng chữ Hán bày tại nhà thờ Chi 3 dòng họ Nguyễn Đức ghi rõ: bà là vợ cả của cụ Nguyễn Công, tên là Niên, hiệu là Từ Liêm sinh năm Ất Mão, mất ngày 16 tháng 11 năm Giáp Thân. Như vậy có lẽ cụ bà Từ Liêm sinh vào năm 1735, mất năm 1824 thọ 89 tuổi.

Tính đến nay, nhà thờ Chi 3 dòng họ Nguyễn Đức đã có khoảng 230 năm tuổi.

Nhà thờ có 3 gian, hướng về phía Đông Nam, bốn cột hiên gồm 2 cột lim đỡ 2 xà bẩy ở 2 đầu hồi, 2 cột đá đỡ 2 xà bẩy gian giữa, 2 cột đá là loại đá màu trắng nguyên khối, với chiều cao gần 2m hình khối hộp có 4 mặt, chia thành 3 phần, phần đế thân cột và đấu đỡ đầu dư, 2 cột đá được cấu tạo theo nguyên tắc "Thượng thu - hạ thách" nghĩa là đế cột mỗi cạnh dài 35cm, cột thu nhỏ dần đến đỉnh, thân cột còn mỗi cạnh dài 27cm, tiếp đến phần đầu kê xoè rộng ra ngoài 4 mặt cột, tạo thế vững chắc cho công trình, 2 cột hiên ở vị trí gian giữa chịu tác động mạnh mẽ của máng nước từ 3 hướng, nên chủ nhân của công trình đó lựa chọn vật liệu đá nguyên khối. Trong điều kiện khả năng kinh tế của một gia đình nông dân cách ngày nay hơn 2 thế kỷ, chế tạo 2 cột đá hẳn phải là sự đầu tư không nhỏ về công của, sử dụng vật liệu đá tự nhiên làm cột đòi hỏi sự chọn lọc rất nghiêm ngặt: đá không được có gân rạn nứt, sử dụng đá nguyên khối làm cột thường thấy trong các công trình tín ngưỡng cộng đồng như đình, chùa, do huy động được sức mạnh của cả làng, cả tổng chứ ít thấy ở các nhà dân. Người chủ xây dựng nhà thờ Nguyễn Đức (Chi 3) rõ ràng muốn để lại cho thế hệ con cháu sau này một ngôi nhà bền vững, chịu được sự thử thách của thời gian.

Nhà thờ Chi 3 dòng họ Nguyễn Đức kết cấu theo kiểu nhà truyền thống của người Việt để phù hợp với nếp sống, sinh hoạt mang tính cộng đồng, dòng họ và chịu được sự khắc nghiệt của khí hậu nhiệt đới. 20 cột đặt trên những chân tảng đá, chia thành 4 hàng đỡ 4 vì, 2 hàng gian giữa trốn cột, chỉ có mỗi hàng 4 cột, 2 hàng cột đỡ 2 vì đầu hồi phía Tây Nam và Đông Bắc, mỗi hàng 6 cột, ở vị trí tách biệt với tường hồi khoảng 40cm nhằm giảm thiểu tác động xấu do mưa nắng thẩm thấu qua tường hồi vào.

Nhà thờ chi 3 dòng họ Nguyễn Đức đảm nhận chức năng thờ cúng chiếm vai trò chủ đạo của lối thiết kế, 3 gian giữa có 3 chuồng cửa với 12 cánh kiểu bức rèm, kéo hết chiều dọc nhà, khi mở cửa ánh sáng tự nhiên tràn ngập khắp nơi, có tác dụng lưu thông không khí, tránh ẩm mốc phá hoại, riêng ngưỡng cửa vẫn giữ lại yếu tố của kiểu nhà thông thường: ngưỡng thấp, tiện việc ra vào (khác với ngưỡng cửa đình, chùa, đền rất cao).

Bức đố che kín từ hoành tải qua xà hạ xuống sát cạnh trên 3 chuồng cửa, ăn mộng vào 4 cột quân, được đóng khung viền, gắn điểm những bông hoa có khối chạm nổi để trang trí, đưa lại nhận thức về mặt thẩm mỹ và sự liên kết chặt chẽ giữa mái nhà với hệ thống cửa ở mặt chính diện của nhà thờ.

4 vì nóc kết cấu kiểu chồng rường, gồm 3 con rường đặt chồng lên nhau qua cột có đấu kê, tại đầu các con rường chạm hoa văn hình đao, mác, hình tượng của chớp trong lễ cầu mưa của cư dân nông nghiệp.

Tại các điểm chót các câu đầu, kẻ chuyền, cùng chạm nhắc lại mô típ như vậy. Phần còn lại của các xà, câu đầu, kẻ chuyền được bào trơn, soi gờ thẳng giản đơn, riêng phần giữa các con rường ở 2 vì đầu hồi được liệt ván vẽ hình bát quái, 4 kẻ bẩy ở hiên hè được chạm hình hoa lá cách điệu trong khung viền nổi.

Hoành tải gỗ lim hình khối 4 cạnh, được xẻ thẳng tắp, các rui gỗ lim có cùng độ dày, rộng, tạo cho mái nhà độ phẳng dốc, không bị mưa dột.

Nhà thờ chi 3 dòng họ Nguyễn Đức từ khi xây dựng đến năm 1945 đã qua 2 lần sửa chữa, trong thời gian hơn 2 thế kỷ tồn tại, mặc dù chịu tác động mạnh mẽ của môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, nhưng công trình nhà cổ vẫn đứng vững trong dáng vẻ cổ kính và khiêm nhường giữa một làng quê đang ngày càng đổi mới.

Ngày 31 tháng 10 năm 2005, nhà thờ chi 3 dòng họ Nguyễn Đức vinh dự được Nhà nước ra quyết định công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Tỉnh theo Quyết định số 3250/QĐ-UBND do đồng chí Vương Văn Việt, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh ký.

Nhận thức rõ giá trị kiến trúc nghệ thuật và truyền thống của nhà thờ, trong những năm qua, bà con trong họ đã động viên nhau góp công, góp của để tôn tạo giữ gìn và phát huy giá trị của một công trình văn hóa lịch sử. Đầu năm 2010, trước sự xuống cấp nghiêm trọng của nhà thờ (do các nhà dân xung quanh xây dựng cơi nới, nhà thờ thường bị ngập úng mỗi khi mưa to), được sự đồng ý của các cấp có thẩm quyền, bà con trong họ đã đóng góp trên 60 triệu đồng để tôn tạo, tu sửa nhà thờ.

Nhà thờ là nơi thờ cúng tổ tiên, hàng năm bà con dòng họ làm giỗ tổ vào ngày 4 tháng 10 Âm lịch, là ngày giỗ của cụ Nguyễn Đức Hội (cụ tổ của đời thứ 5 thuộc chi 3 dòng họ Nguyễn Đức) và cũng là ngày họp mặt của cả dòng họ để ôn lại công lao của tổ tiên, nhắc nhở con cháu giữ gìn nề nếp gia phong, noi gương các bậc tiền nhân để làm rạng danh thêm truyền thống của dòng họ Nguyễn. Ngày nay nhà thờ đảm nhiệm thêm nhiều chức năng mới như: là nơi hội họp của dòng họ, là nơi chi hội khuyến học phát phần thưởng cho các con em của dòng họ hiếu học, học giỏi, đỗ đạt cao, đậu đại học, cao đẳng...


 

 

DI TÍCH VÀ DANH THẮNG NÚI VOI

(Xã Quảng Thịnh)

 

Di tích và Danh thắng núi Voi thuộc làng Thọ Sơn, Bất Quần, huyện Quảng X­ương x­ưa. Nay thuộc làng Trường Sơn, xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Núi có vị trí địa lý khá đặc biệt, sát chân núi Voi về phía Tâysông đào nhà Lê. Xư­a kia có bến Phủ, bến Đình, nơi giao lưu buôn bán tấp nập, các hàng hóa nông lâm sản: như lạc, đậu, mật, đường, luồng, gỗ... từ các tỉnh phía Nam ra, phía Bắc vào. Đây cũng là nơi bốc xếp, chuyên chở các hàng quốc phũng phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ với thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Cách chân núi Voi về phía Đông vài trăm mét là Quốc lộ 45 chạy qua, nối liền mạch máu giao thông các huyện như : huyện Như­ Xuân, Như­ Thanh, Nông Cống với trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh. Núi Voi "Giữa nơi đất bằng, đột nhiên mọc lên ngọn núi rất cao, vẻ đẹp mà lạ, trông tựa một con voi phục. Ông trạng nguyên Trịnh Tuệ triều Lê làm nhà đọc sách d­ưới chân núi".(1)

Ca ngợi vẻ đẹp của núi Voi, sách “ Thanh Hóa tỉnh chí” của Vương Duy Trinh chép như sau: “Khoe sắc màu nâu ở chân núi, phơn phớt hồng ở trên cao, nham thạch đá vôi găm kết cùng các nham thạch khác tạo nên những khối đá độc đáo, lạ kỳ. Núi Voi là cả đàn voi, mỗi con mỗi vẻ, dáng voi phục, nhưng không cúi đầu, sẵn sàng tư thế vùng lên”.(2)

Núi Voi có nhiều hang, theo đường lên đỉnh núi ta gặp hang Trống, để lộ bầu trời xanh thông thoáng ban ngày, lung linh trăng sao ban đêm, cả hai phía Đông - Tây. Trên đỉnh núi có bàn cờ tiên, giếng tiên, những ngày trời quang mây, đứng ở đây du khách có thể phóng tầm mắt đến biển Sầm Sơn - Thanh Hóa. Lưng chừng núi về phía Đông Nam có hang Rồng tuyệt đẹp. Núi Voi không trơ trọi mà tươi xanh quanh năm bởi những tán đá rất nhiều năm tuổi với bóng cây cổ thụ. Từ bao đời nay "dù cho vật đổi, sao rời" bà con làng Voi và nhân dân Quảng Thịnh rất đang tự hào về núi Voi, sống cùng với núi, hả hê tránh oi bức mùa hè, vui đón mùa xuân, trú ẩn thời chiến tranh loạn lạc.

Núi Voi sơn thủy hữu tình, địa thế linh thiêng đã đi vào sử sách, thơ ca, nhạc họa của các khách tao nhân đến th­ưởng ngoạn. Tại núi còn bút tích bài thơ của Trần Chu Sỹ khắc trên vách núi ở hang Trống vào mùa đông năm Nhâm Tý niên hiệu Tự Đức (1872).

Những di tích nằm trong quần thể núi Voi:

Núi Voi điểm hội tụ thiên nhiên, trời đất văn hóa của vùng Quảng X­ương xư­a, đến với núi Voi mọi người không chỉ để chiêm ngưỡng hòn đảo Ngọc Bình xa xưa của biển Đông, nằm giữa đồng bằng ven biển của Thanh Hóa mà còn vãn cảnh chùa, cảnh phủ để tìm hiểu những giá trị di tích lịch sử văn hóa từ ngàn xư­a.

Chùa Phúc Lâm:

Chùa Phúc Lâm, dân quen gọi là chùa Voi. Chùa được lập ngay phía Đông chân núi Voi vào thời Lê Trung hưng (1533 -1789). Năm (1727) nhân dân các xã, thôn thuộc hai huyện Đông Sơn và Quảng Xương xư­a gồm: xã Lưu Vệ, Thanh Xương Lâm, Bất Quần, Mỹ Cảnh, Trạch Văn Lâm, Thái Ngọc Mai, Quang Chiểu, Quảng Xuyên và 21 làng góp công, góp của thực hiện quy ước về việc thờ tự. Chùa Phúc Lâm (chùa Voi) được trùng tu tôn tạo lại vào thời điểm ấy. Người có công dựng chùa là Quận công Hoàng Bùi Hoàn. Ông tên tự là Phúc Linh, ng­ười dân th­ường gọi là Hoàng Bùi Tướng công hay Quận Vệ Câu Đồng vì ông sinh ra ở Câu Đồng Nội xã Lưu Vệ (Nay là làng Câu Đồng xã Quảng Trạch). Xuất thân trong một gia thế danh gia vọng tộc, nhiều đời làm quan nức tiếng cả vùng. Buổi đầu đ­ược giao ban làm Lưu thủ quan xứ Thanh Hoa, cai quản nội trấn phủ Yên Tr­ường, Cai Cơ quan thị nội giám, Ty Lễ Giám, Tổng Thái Giám, Đô hiệu điểm ty hữu hiệu điểm, t­ước Vệ Quận công.

Phía ngoài chùa có gác chuông 8 mái uốn cong, sàn gác chuông lát ván dầy, có lan can gỗ xung quanh, chuông treo trên gác chuông của chùa, đúc vào triều Gia Long (1802-1820).

Hai bên gác chuông là vườn chùa, có bia đá, khánh đá chạm khắc tinh xảo, sân chùa lát gạch. Chùa có 7 gian, 5 gian ngoài và 2 gian hậu cung, chùa xây bằng gạch, t­ường hồi bít đốc.

Trong chùa có đầy đủ hệ thống tượng thờ, có hoành phi, câu đối, hai pho tượng đá, tọa trên 2 kiệu đá hiện còn lại ở trong chùa là Quận công Hoàng Bùi Hoàn và Quận phu nhân Trịnh Quí Thị, hiệu là Diệu Thành, là ng­ười địa ph­ương.

Ngày mùng 1 và ngày rằm hàng tháng, các tiết trong năm bà con các nơi về chùa cúng Phật cầu phúc, cầu may, thắp nén hương thơm tưởng niệm về "người có công với dân với n­ước và đã dựng chùa, mở chợ ".

 Văn chỉ hàng Huyện:

Về phía Đông Nam chân núi Voi, trên dấu vết của văn chỉ làng Thọ Sơn, nhân bàn chuyện văn chương, Tri huyện Quảng Xương Nguyễn Lai tập hợp các văn thân, các nhà hằng tâm, hằng sản, quyên góp trong dân; ngày 12 tháng 5 năm Tân Hợi (1731) thì khởi công xây dựng văn chỉ.

Theo sách "Đồng Khánh dư địa chí" của nhà Nguyễn thì văn chỉ hàng Huyện ở núi Voi, là công trình kiến trúc rất bề thế: "có 2 tòa nhà, mỗi tòa 5 gian, lợp ngói, tường xây gạch, có 1 cửa tiền", dân trước có người giúp việc, có bái vọng các vị đỗ đạt các bậc tiên thánh tiên hiền đỗ đạt trong toàn huyện.

Đền thờ Quan Trạng Trịnh Huệ (Tuệ):

Trịnh Huệ, sau đổi thành Trịnh Tuệ hiệu là Trịnh Tâm Cư­ Sĩ, vốn dòng dõi nhà Chúa, vì tránh tên huý vợ chúa Trịnh Tùng là Đặng Thị Huệ nên mới đổi tên thành Tuệ. Nguyên quán làng Sáo Sơn xã Biện Th­ượng (nay là Vĩnh Hùng - Vĩnh Lộc). Ông sinh năm Nhâm Ngọ đời vua Hy Tông thứ 2(1702) là người thông minh, tài trí, cần mẫn. Về sau ông cùng gia quyến dời nhà đến chân núi Voi thuộc xã Bất Quần, huyện Quảng Xư­ơng dựng nhà dậy học lấy tên là Thảo Lư Học Quán.

Khoa thi hư­ơng năm Ất Mão niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2(1735) đời vua Lê Ý Tông, ông đỗ Hương cống. Năm Bính Thìn (1736) đời Lê Ý Tông, ông đỗ Trạng Nguyên. Sau khi thi đỗ đ­ược nhận chức Đông các Đại học sĩ, Thiêm sai phủ liêu. Năm Mậu Ngọ (1738) thăng Thư­ợng th­ư bộ lại, Tham tụng (Tể t­ướng trong phủ chúa).

Năm 1741, vua dụng phong ông làm Thừa chính sứ Sơn Nam, Tế tửu Quốc Tử giám lo công việc đào tạo nhân tài, phát triển khoa cử của đất n­ước. Tuổi già, Quan Trạng tiếp tục trở lại sống trên quê hương thứ hai: Làng Voi, xã Quảng Thịnh. Học trò của Quan Trạng rất đông. Những tr­ước tác của ông để lại không nhiều, tiêu biểu nh­ư bài “Tam giáo nhất nguyên thuyết” bày tỏ quan điểm Tam giáo đồng nguyên không có gì mới, nó đã được nêu từ các triều tr­ước.

Khi ông qua đời, để ghi nhớ công đức của vị Trạng nguyên Trịnh Huệ, người thầy, người có nhiều đóng góp cho nước, cho dân, bậc hiền tài, người đương thời đã lập đền thờ ông ở núi Voi liền kề với chùa Phúc Lâm, nhân dân địa phương quen gọi đền thờ Quan Trạng, là Nghè thờ Quan Trạng.

Phủ Voi:

Phủ Voi xây dựng không biết có từ bao giờ, chỉ biết rằng vào năm 1931 đời vua Bảo Đại nhà Nguyễn, phủ đ­ược tôn tạo lại, nằm sát chân núi voi về phía Tây, tr­ước mặt là sông nhà Lê hiền hòa, đưa nguồn nước bạc chảy quanh cửa phủ.

Vị trí phủ Voi linh thiêng, phủ có 5 gian ngoài thờ các cô, các quan, bà chúa bản phủ; 2 gian trong gọi là hậu cung đặt tượng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tọa trên kiệu sơn son thếp vàng. Phía d­ưới cạnh bờ sông sông có miếu thờ Mẫu Thoải. Hàng năm từ ngày mùng 1 tháng 3 đến ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch làng mở Hội phủ Voi.

- Mùng 1 mở cửa phủ.

- Mùng 2 rước bóng (rước kiệu Thánh Mẫu Liễu Hạnh), từ phủ Voi lên phủ Thanh Lâm, Thành phố Thanh Hóa.

- Mùng 3 tháng 3 lễ tại phủ Voi.

Lễ hội phủ Voi đã thể hiện tính thống nhất tôn thờ 1 vị thánh giữa vùng đất thuần nông với nơi đô thị, thể hiện tinh thần đoàn kết, cùng chung tín ngưỡng tôn giáo dân tộc của nhân dân.

Thật vậy, danh thắng núi Voi và di tích kiến trúc lịch sử văn hóa quanh núi là những công trình kiến trúc đồ sộ, tuyệt mỹ, tuyệt hảo. Song trải qua hàng trăm năm phong hóa, qua nhiều năm chiến tranh, qua bàn tay "vô tình" của con người nên các công trình kiến trúc đồ sộ trên không còn, nhưng nền móng, khuôn viên kiến trúc chùa, đền, văn chỉ phủ Voi vẫn còn.

Năm 1997, UBND xã Quảng Thịnh cùng với nhân dân đã tôn tạo lại phủ Voi, chùa Voi, chuyển chợ Voi ra phía Nam làng; chợ Voi mới được xây kiên cố, hiện đại phù hợp với truyền thống của địa phương.

Đền, phủ ở núi Voi không chỉ là chứng tích lịch sử văn hóa mà cũng là nơi ghi lại những chứng tích lịch sử của con người trong khói lửa chiến tranh cách mạng của dân tộc. Đ­ược sự quan tâm của chính quyền các cấp, sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan chuyên môn, năm 1996 di tích đã đ­ược công nhận cấp tỉnh. Ngày nay việc trùng tu, tôn tạo lại các công trình lịch sử văn hóa ở khu vực núi Voi. Đảng bộ, chính quyền các cấp xã, huyện, tỉnh đã có chủ trương. Chúng ta tin tưởng rằng: Chủ trương trên nhất định thành hiện thực, để danh thắng núi Voi và di tích lịch sử văn hóa núi Voi xứng tầm thời đại.

 

 


 

 

NGHÈ ĐỆ TỨ - DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG

(Xã Quảng Thọ)

 

Nghè Đệ Tứ nằm ở địa phận làng Hòa Chúng, xã Quảng Thọ. Làng Hòa Chúng - quê hương cách mạng của huyện Quảng Xương đã có lịch sử hình thành từ lâu đời. Thời nhà Đinh, làng có tên gọi là làng Đồn, gắn với sự tích Đinh Tiên Hoàng khi lên ngôi đã phong cho Lê Lương chức Đô quốc dịch sứ Châu Ái và cắt nửa cõi phong cho dòng họ Lê (văn bia chùa Hương Nghiêm). Thời Lý, làng có tên gọi Đồn Trang, thời Hậu Lê gọi là làng Đồn và sang thời nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) được đổi tên là Hòa Chúng cho đến ngày nay.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hòa Chúng thuộc xã Cung Thượng, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Giai đoạn 1947, huyện đã hợp nhất 3 xã Lê Viêm, Bạch Đằng và Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu. Năm 1954, xã Quảng Châu chia thành 3 xã: Quảng Thọ, Quảng Châu và Quảng Vinh. Làng Hòa Chúng thuộc xã Quảng Thọ. Làng có 4 nghè, gồm Nghè Đình Thượng (đệ nhất), Nghè Ròng (đệ nhị), Nghè Thông (đệ tam) và Nghè Đệ Tứ. Cả 4 nghè được xây dựng ở thế đối xứng nhau. Nghè Đệ Tứ nằm trên tuyến Quốc lộ lộ 47, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 12km.

Căn cứ vào các sắc phong và tài liệu còn lưu giữ được cùng những thần tích và những câu chuyện dân gian truyền tụng lại, Nghè Đệ Tứ là nơi thờ tự người con trai của Lê Lương, do lập nhiều công lao đã được hoàng đế Lê Đại Hành phong tước Vệ đại tướng quân. Khi mất, ngài được tôn phong Đại vương thượng đẳng tôn thần, nhân dân tôn ngài làm thành hoàng làng và thờ tại Nghè Đệ Tứ. Linh vị của ngài được đặt tại khu chính tẩm của nghè. Qua bản dịch của các sắc phong còn lưu giữ tại Nghè Đệ Tứ, các triều đại phong kiến đã phong cho ngài tước “Dực bảo trung hưng Linh phù Quang ý Đoan túc Thiếu bảo Nhân quận công lưỡng vệ Đại tướng quân Thượng đẳng tôn thần vị hiền”.

Nghè Đệ Tứ xưa kia gồm có tiền đường 5 gian 2 chái, tổng chiều dài 13,35m. Hậu cung gồm 3 gian, tổng chiều dài 6,7m. Tại Nghè vẫn còn lưu giữ được 2 sắc phong rất có giá trị. Tại Nghè có treo câu đối:

          “Quần sinh đắc thiên thu vọng

          Lạc sự hoan đồng vạn chúng sinh”.

      Dịch nghĩa:

          Sống quần tụ được ngàn thu trông cậy

          Làm việc vui cùng muôn vạn chúng sinh.

      Câu đối ở cột nanh: (1)

          “Xa mã vãng lai huyền đại đạo

          U minh xuất nhập diện huyền cơ”.

Dịch nghĩa:

          Xe ngựa đi về theo đường đạo nghĩa cả

          Vào ra sáng tối, kỳ diệu máy then trời.

(2)

          “Tế tụng chưng thường thu tổ đức

          Lễ tuân chiêu mục trọng nhân luân”.

Dịch nghĩa:

          Tế dùng theo phép thông thường, thi hành đức độ tiên tổ

          Lễ tháng tuần bên chiêu mục, tôn trọng luân lý con người.

Tại nghè có các đại tự:

          “Bảo lê dân

          Tối linh từ”

Dịch nghĩa:

          Bảo hộ con dân

          Đền thờ linh thiêng nhất.

Hàng năm, Nghè Đệ Tứ và Nghè Thọ Đài đều tổ chức các ngày lễ: Tết cổ truyền, 15 tháng Giêng (lễ Cầu phúc), ngày giỗ nhị vua thiên thần (3/2), tết Đoan Ngọ (5/5), tế Trung Nguyên thượng điền (15/7), tế cốc vũ (10/9) Âm lịch. Mỗi khi có biến cố về thời tiết gây dịch bệnh cho con người, vật nuôi và cây trồng thì các cụ lại tổ chức lập đàn tế, như cầu mưa, cầu trừ dịch bệnh, sâu bọ, cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho con người khoẻ mạnh... Các Lễ hội mang đậm nét bản sắc quê hương, như trồng đu quay, đánh trống vật cờ tướng, giao lưu văn hóa văn nghệ như: chèo tuồng cổ, rước kiệu quanh làng.

Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Nghè Đệ Tứ là nơi gắn liền với phong trào văn thân chống Pháp và cũng là địa điểm hoạt động của Việt Minh huyện Quảng Xương. Trong phong trào văn thân giữa thế kỷ XIX, làng Hòa Chúng có ông Lê Viêm và Đường Hiêng liên kết với lãnh tụ Lãnh Phiên chiêu tập nghĩa quân đánh Pháp, tiêu biểu như trận đánh thành Thanh Hóa, trận đánh tại chợ Cầu Trỏi thuộc làng Hòa Chúng. Nghè Đệ Tứ ở cạnh nhà ông Lê Viêm đã trở thành nơi hội họp của nghĩa quân. Trong những năm 1885 - 1886, do biết được vai trò của Nghè, thực dân Pháp đã đốt Nghè và bắt, sát hại những người theo phong trào Cần Vương nhưng phong trào đã không bị dập tắt mà còn được thổi bùng lên mạnh mẽ khiến bọn thực dân, phong kiến phải sợ hãi. Đã có những câu thơ được truyền tụng lại như sau:

Đốt từ ao quán đốt ra

Phía Nam nhờ có người nhà tên lân

Vào lùng tìm bắt nghĩa quân

Truy tìm thủ lĩnh tay chân cầm đầu

Lùng từ ngõ trước vườn sau

Huênh hoang chém giết mấy người oan khiên.

Sau khi bị phá hỏng, Nghè đã được dân làng khôi phục, xây dựng lại trên nền đất cũ.

Dưới ánh sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, sau năm 1940, cơ sở Việt Minh ở phía Bắc huyện Quảng Xương đã được hình thành, trung tâm hoạt động tại làng Hòa Chúng do nhóm thanh niên yêu nước, tiêu biểu là Lê Quang Liệu chỉ huy. Đây là những đốm lửa đầu tiên của phong trào cách mạng Quảng Xương. Nghè Đệ Tứ có tiếng là linh thiêng, ít bị nghi ngờ đã được lựa chọn là địa điểm liên lạc, nơi ở bí mật của cán bộ cấp trên về hoạt động tại làng Hòa Chúng như đồng chí Tố Hữu, Đinh Chương Lân. Nơi đây còn cất dấu nhiều tài liệu, là nơi họp bàn của cán bộ cách mạng. Làng Hòa Chúng cũng là nơi triệu tập Hội nghị Việt Minh huyện, thành lập ban khởi nghĩa và phát lệnh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trong toàn huyện. Đêm ngày 18 tháng 8 năm 1945, lực lượng đánh chiếm huyện lỵ đã tập kết tại Cồn Tiền thuộc làng Hòa Chúng và tiến về chiếm huyện lỵ Quảng Xương, giành chính quyền trong toàn huyện vào ngày 19 tháng 8 năm 1945.

Làng Hòa Chúng đã có bề dày lịch sử hàng ngàn năm và có nhiều công lao to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Nghè Đệ Tứ cùng với làng Hòa Chúng là địa điểm di tích lịch sử cách mạng - cái nôi cách mạng của huyện Quảng Xương trong những năm chuẩn bị và tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đây cũng là nơi chứng kiến sự kiện lịch sử trọng đại: thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên - tiền thân của Đảng bộ huyện Quảng Xương (ngày 26/2/1946).

Trải qua chiều dài lịch sử, Nghè Đệ Tứ đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân quê hương Hòa Chúng nói riêng, xã Quảng Thọ nói chung. Với vị trí, vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng, ngày 1 tháng 1 năm 2000, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã có Quyết định số 578/QĐ/VHTT công nhận Nghè Đệ Tứ là di tích lịch sử cách mạng.

Năm 2007, Nghè Đệ Tứ được đầu tư tôn tạo trên diện tích 448m2 với kinh phí hơn 400 triệu đồng. Hiện nay, các hoạt động dâng hương tưởng niệm, tổ chức các lễ hội truyền thống tại Nghè vẫn được gìn giữ và phát huy. Lãnh đạo chính quyền xã Quảng Thọ đã quy hoạch mở rộng mặt bằng với diện tích 3083,7 m2, đã được UBND huyện và Sở VH-TT&DL phê duyệt) để Nghè Đệ Tứ ngày càng bề thế, khang trang hơn, phục vụ tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân trong xã và bè bạn gần xa.

                                                                      

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

HÒA CHÚNG

(xã Quảng Thọ)

QUÊ HƯƠNG CÁCH MẠNG

 

Làng Hòa Chúng nằm ở vị trí trung tâm của xã Quảng Thọ, cách trung tâm huyện Quảng Xương khoảng 10km về phía Đông – Nam. Trải dài theo bề dày lịch sử, xã Quảng Thọ nói chung, làng Hòa Chúng nói riêng có vị trí địa lý hết sức quan trọng, đặc biệt về giao thông thủy bộ với tuyến đường thiên lý bắc – nam; là cửa ngõ vào huyện lỵ của các làng vùng biển phía bắc huyện thời kỳ xưa và ngày nay là tuyến Quốc lộ 47 (Thanh Hóa - Sầm Sơn). Hòa Chúng là vùng đất giàu truyền thống yêu nước, ham học tập, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm đã ăn sâu vào từng người dân trong làng suốt ngàn năm lịch sử.

Qua bản dịch các sắc phong cũng như theo truyền thuyết và thần tích để lại, ngay từ thời Tiền Lê, Trần và Tây Sơn, nhân dân làng Hòa Chúng đã có nhiều chiến công trong chống giặc ngoại xâm. Trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược, làng Hòa Chúng có tướng quân Lê Viêm và Vũ Kim Huy đã tham gia nghĩa quân Ba Đình, tổ chức nhiều trận chiến đấu dũng cảm và lập nhiều chiến công vang dội.

Bước sang thế kỷ XX, với sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), dưới ánh sáng soi đường, chỉ lối của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, nhân dân làng Hòa Chúng đã có nhiều chuyển biến về tư tưởng và hành động, đóng góp tích cực cho phong trào cách mạng của huyện nhà. Ngay từ thời kỳ diễn ra cao trào dân chủ (1936 – 1939), nhiều thanh niên, học sinh ở Hòa Chúng đã được giác ngộ, có lý tưởng cách mạng, tích cực tuyên truyền tinh thần yêu nước và phong trào dân chủ, tiêu biểu là người thanh niên Lê Quang Liệu. Trong những năm 1943, Lê Quang Liệu đã được tiếp xúc với đồng chí Tố Hữu giao nhiệm vụ xây dựng phong trào Việt Minh ở Quảng Xương. Đồng chí Lê Quang Liệu đã tập hợp được nhiều bạn và tích cực tuyên truyền mục đích, tôn chỉ và thành lập nhóm Việt Minh để giác ngộ những người có chí khí, dũng cảm, biết giữ bí mật, sẵn sàng hi sinh bản thân vào tổ chức Việt Minh. Trong những lần về kiểm tra phong trào, đồng chí Tố Hữu thường ở nhà đồng chí Lê Quang Liệu và giao nhiệm vụ cách mạng cho tổ chức Việt Minh. Nhiệm vụ của Việt Minh Quảng Xương lúc này là chống giặc Nhật cướp thóc gạo; chống nhổ lúa trồng đay; chống đi phu cho giặc; chống nộp sưu thuế cho thực dân và tay sai; tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho nhân dân và phát triển hội viên; tìm hội viên trung kiên để xây dựng lực lượng vũ trang. Đầu năm 1944, đồng chí Tố Hữu đã tổ chức cuộc họp tại Nghè Đệ Tam, giải thích tình hình nhiệm vụ của cách mạng, chính sách của Việt Minh…và tại nhà đồng chí Lê Quang Liệu, đồng chí Tố Hữu đã mở lớp bồi dưỡng cho những cán bộ chủ chốt của Việt Minh huyện. Đây là những cán bộ trung kiên, những nhân tố tích cực tiếp tục gây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng rộng lớn hơn. Vì vậy, trong thời kỳ này, phong trào Việt Minh đã không còn bó hẹp ở xã Quảng Thọ mà đã phát triển thành một vùng rộng lớn phía Bắc huyện, cùng với lực lượng Việt Minh phía Nam huyện tổ chức nhiều cuộc vận động đấu tranh với quy mô rộng lớn, kết hợp với khởi nghĩa vũ trang khiến cho bọn đế quốc thực dân và tay sai phải mất ăn mất ngủ.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Trước tình hình đó, Ban Việt Minh Quảng Xương đã triệu tập cuộc họp tại Nghè Đệ Tam (Hòa Chúng) để nhận định tình hình và đề ra phương án hoạt động trong thời gian tới. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Việt Minh Quảng Xương đã họp, tuyên bố lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn huyện và thành lập ban khởi nghĩa gồm 5 thành viên, do đồng chí Lê Quang Liệu làm trưởng ban. Trước khi tiến về huyện lỵ, làng Hòa Chúng là địa điểm tập trung của lực lượng khởi nghĩa vào đêm 18 tháng 8 năm 1945. Từ đó, đoàn quân khởi nghĩa tiến về đánh chiếm huyện lỵ Quảng Xương, giành chính quyền trong toàn huyện vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và sáng ngày 22 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động làng Nghiêm (xã Quảng Giao) đã diễn ra lễ mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và ra mắt Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Quảng Xương. Từ đây, chính quyền về tay nhân dân, ước mơ ngàn đời của dân tộc Việt Nam nói chung, người dân làng quê Hòa Chúng nói riêng là được làm chủ trên quê hương, đất nước của mình đến nay đã trở thành sự thật. Nhân dân thực sự được hưởng độc lập, tự do, đoàn kết xây dựng chính quyền cách mạng vững mạnh, tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, có thể khẳng định, xã Quảng Thọ là cái nôi cách mạng của huyện Quảng Xương. Khi nói đến Quảng Thọ, chắc chắn mọi người sẽ không quên nhắc về làng Hòa Chúng. Hòa Chúng - Quảng Thọ, hai cái tên luôn đi kèm với nhau với biết bao sự kiện và điều tự hào. Để trân trọng và ghi nhận công lao đó, ngày 21 tháng 10 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1100/TTg tặng Bằng có công với nước làng Hòa Chúng, xã Quảng Thọ vì “Đã nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực giúp đỡ và bảo vệ cách mạng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8”. Cùng với ý nghĩa đó, một sự kiện khác hết sức trọng đại trong đời sống chính trị của mỗi người dân Quảng Xương được ghi dấu trên mảnh đất Hòa Chúng, đó là ngày 26 tháng 2 năm 1946, tại nhà đồng chí Lê Quang Liệu, Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa đã làm lễ kết nạp 3 cán bộ Việt Minh, gồm Lê Quang Liệu, Vũ Thanh Long và Hà Văn Tuyên vào Đảng; tuyên bố thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Quảng Xương và giao trách nhiệm hoạt động như một Huyện ủy lâm thời; cử đồng chí Lê Quang Liệu làm Bí thư. Cũng trong những ngày cuối tháng 12 năm 1947, tại làng Hòa Chúng đã diễn ra Đại hội Đảng bộ huyện Quảng Xương lần thứ nhất. Tại Đại hội, đồng chí Lê Quang Liệu - người con ưu tú của làng Hòa Chúng được bầu làm Bí thư Huyện ủy, trở thành người Bí thư đầu tiên của Huyện ủy Quảng Xương.

Sự kiện thành lập tổ chức Đảng ở huyện Quảng Xương đã đánh dấu bước phát triển mới trong phong trào cách mạng. Từ đây nhân dân Quảng Xương đã có tổ chức Đảng lãnh đạo, đưa mọi phong trào cách mạng của huyện nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày 26 tháng 2 năm 1946 đã trở thành dấu ấn không thể nào quên đối với các thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân làng Hòa Chúng nói riêng và huyện Quảng Xương nói chung.

Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Quảng Xương, trực tiếp là chi bộ Đảng xã Quảng Thọ, cán bộ, nhân dân làng Hòa Chúng đã tích cực hưởng ứng, tham gia nhiều phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp xóm làng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược, làng Hòa Chúng đã cùng với nhân dân Quảng Thọ hăng hái đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến, lập nên nhiều chiến công trên tất cả mọi lĩnh vực, góp phần to lớn vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ – ne – vơ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương (1954). Hòa bình được lập lại ở Miền Bắc, người dân Hòa Chúng cùng với nhân dân cả nước lại bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới: cách mạng XHCN ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam. Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làng Hòa Chúng nói riêng, xã Quảng Thọ nói chung luôn luôn là hậu phương lớn, tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn anh hùng, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc được thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng CNXH. Trong niềm vui chung đó, xã Quảng Thọ xứng đáng với danh hiệu mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng: “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trong công cuộc đổi mới, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước, Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Thọ luôn phát huy truyền thống anh hùng, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, xã hôi, quốc phòng - an ninh, không ngừng củng cố hệ thống chính trị và chú trọng công tác xây dựng Đảng. Cho đến nay, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã đã được nâng lên rõ rệt, diện mạo quê hương ngày càng có nhiều đổi thay. Những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống luôn được gìn giữ và phát huy trong điều kiện mới. Đảng bộ xã đã tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên cùng với sự huy động các nguồn vốn đóng góp của nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm để xây dựng các công trình lịch sử, văn hóa. Ngày 10 tháng 12 năm 2010, Đảng bộ, chính quyền xã Quảng Thọ đã khởi công, xây dựng khu di tích cách mạng Hòa Chúng với nguồn vốn ban đầu hơn 4 tỉ đồng, trên diện tích 5.800m2 - nơi diễn ra sự kiện thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Quảng Xương. Đây cũng là niềm tự hào, vinh dự to lớn đối với nhân dân làng Hòa Chúng và cũng như một lời nhắc nhở về việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa của quê hương, đất nước cho các thế hệ mai sau.

 

 

 


 

 

NGHÈ THỌ ĐÀI

(Xã Quảng Thọ)

 

Nghè Thọ Đài xưa thuộc xã Điều Yên - tổng Cung Thượng, nay là làng Thọ Đài, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Xương. Theo sắc phong còn giữ được, nghè Thọ Đài thờ hai vị thần là Thiên cương Thượng đẳng thần và Thiên cáo Thượng đẳng thần. Tục truyền, hai vị thiên thần có công hộ quốc, hiển linh phù trợ cho nghĩa quân Lam Sơn. Trải qua các triều đại, hai vị thiên thần được nhân dân thờ phụng, bốn mùa cúng tế. Nghè Thọ Đài được xây dựng từ lâu, chí ít cũng vào thế kỷ XV.

Tại nghè Thọ Đài còn lưu giữ đạo sắc phong năm Thiệu Trị lục niên (1846) có nội dung sau:

Sắc: Chính trực long tuấn Thiên Cáo chi thần hộ quốc tỷ dân niệm linh ứng, tứ kim phi ưng trẫm mạnh diệu niệm thần lâm khả dạ tảng chính trực long tuấn trực mạc chi thần nhưng chuẩn Quảng Xương huyện Điều Yên xã Đài Thôn hoài lam phụng sự thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân khâm tai.

Thiệu Trị lục niên cửu nguyệt thập tứ nhật

Tạm dịch:

Thần chính trực long tuấn Thiên Cáo chi thần có công hộ quốc phù hộ cho dân rất linh ứng, nay Nhà vua ban sắc cho thôn Đài xã Điều Yên, huyện Quảng Xương được phụng sự thần để hưởng sự phù hộ cho dân, hãy vâng theo sắc phong.

Ngày 14 tháng 9 năm 1846

Ngọc phả nghè Thọ Đài còn lưu giữ còn ghi lại đạo sắc năm Khải Định cửu niên (1922) có nội dung sau:

Phiên âm:Sắc Thanh Hóa tỉnh, Quảng Xương huyện, Cung Thượng tổng, Bình Yên xã, Thọ Đài thôn tòng tiền phụng sự nguyên tặng linh phù thuần chính linh tọai thuý mộc dực bảo trung hưng linh cóc hiến Thiên Cương thượng đẳng thần hộ quốc tỷ dân niệm tước linh ứng tiết mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự Tứ kiên chính trực, trẫm tứ tuần Đại khánh tiết kinh ban thực chiếu thiện nhân lễ long đăng phù đặc chuẩn hứa hoài lam phụng sự duy chí quốc khánh nhi tự điển khâm tai.

Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật”

Tạm dịch:

Nay sắc cho nghè Thọ Đài ở xã Bình Yên, tổng cung Thượng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa theo lệ trước được thờ thần Thiên Cương thượng đẳng thần vì thần có công hộ quốc giúp dân từ trước đến nay rất linh ứng, nay nhà vua làm Quốc lễ tứ tuần Đại khánh nên ban sắc này, hãy vâng sắc.

Ngày 25 tháng 7 năm 1922

Theo truyền thuyết và lời kể của các cụ cao niên, xưa kia, Nghè được xây dựng quy mô to lớn, kết cấu kiểu chữ Đinh (J), có 5 gian tiền đường, hai gian hậu cung, tường xây bằng vữa mật, kết cấu nghè như sườn, cột, chồng rường, bẩy kẻ, kèo phong… toàn bằng gỗ quý, chạm trổ công phu. Trong nghè có nhiều đồ thờ, kiệu bát cống và hơn 10 đạo sắc phong. Đến năm 1970, do các biến cố lịch sử, Nghè bị hư hỏng nặng nề, số di vật chỉ còn lại chút ít.

Năm 2005, những người có tâm huyết trong làng là ông Đỗ Văn Tuất và ông Đỗ Văn Xoan đã vất vả tìm tòi, sưu tầm, tập hợp di vật, dấu tích xưa còn lại của nghè Thọ Đài. Đầu năm 2006, hai ông Đỗ Văn Tuất và Đỗ Văn Xoan đã tìm thấy hai đạo sắc phong, lư hương đồng cổ, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã tích cực đầu tư, phát tâm công đức xây dựng nghè. Toàn bộ khuôn viên nghè mới được phục hồi theo kiểu nhà cấp 4, xung quanh là hồ ao và cánh đồng, duy nhất mặt phía Đông giáp với đường liên thôn được xây tường ngăn cách. Cổng nghè quay hướng Đông, sân nghè lát gạch bát, 3 gian Tiền đường và 2 gian Hậu cung đều xây dựng kiểu nhà cấp 4, gác chếch, vì kèo gỗ đơn giản, đòn tay, rui, mè bằng luồng, đầu hồi bít đốc, bờ chảy được xây dật cấp, trên nóc trang trí lưỡng long chầu nhật.

Hiện tại nghè Thọ Đài còn lưu giữ các hiện vật cổ như: Lư hương đá, bát hương sứ, lư hương đồng, hộp sắc, sắc phong, hòm đựng thần phả, đài rượu, chân nến.

Ngày 25 tháng 12 năm 2007, nghè Thọ Đài được UBND tỉnh cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 4109 /QĐ-UBND.

Theo tục lệ cổ, hàng năm ngày mùng 03 tháng 02 là ngày giỗ của hai vị thiên thần, nhân dân trong vùng tổ chức lễ hội, rước kiệu ba ngày, hai ngày đầu đi quanh làng, vui chơi bằng các hình thức như đánh cờ người, đu quay, đấu vật, diễn chèo, tuồng, giao lưu văn nghệ, ngày thứ ba rước kiệu xuống đền thờ An Dương Vương làng Bình Hòa (Quảng Châu) để hòa cùng Đại lễ.

Nghè Thọ Đài hàng năm có các ngày lễ chính gồm:

    - Mùng 3 tháng 2 - Đại lễ - ngày giỗ của hai vị thiên thần

    - Ngày 15 tháng 2 - Nguyên tiêu;

    - Ngày 01 tháng 5 - Tế Thượng điền;

    - Ngày 15 tháng 7 - Tế Trung nguyên hạ điền;

    - Ngày 10 tháng 9 - Tế Cốc vũ.

Khi nào gặp thiên tai hoặc dịch bệnh thì tổ chức lễ cầu mưa, trừ dịch bệnh.

Nghè Thọ Đài là nơi thờ Nhị vị thần chủ có công bảo vệ xây dựng quê hương, đất nước. Từ xưa đến nay, Nghè là nơi sinh hoạt, hội hè của nhân dân địa phương mỗi khi xuân về, thu tới.


 

 

ĐỀN THỜ - LĂNG MỘ TƯỚNG CÔNG

 HOÀNG BÙI HOÀN

(Xã Quảng Trạch)

 

Đền thờ tướng công Hoàng Bùi Hoàn có tên chữ là Tướng Công Từ, nhân dân địa phương gọi là đền Quận công thuộc thôn Câu Đồng, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa gần 10 km và cách huyện lỵ Quảng Xương gần 3 km về phía Nam.

Theo Gia phả, văn bia ở đền thờ cho biết: Dòng họ Hoàng ở thôn Câu Đồng nội,xã Quảng Trạch ngày nay, chính quán xã Đông Cầu, tỉnh Hải Dương. Thời kỳ nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, cụ Hoàng Tính cùng con cháu từ Hải Dương vào sinh cơ lập nghiệp ở thôn Câu Đồng nội, xã Lưu Vệ, huyện Quảng Xương. Về sau trở thành một dòng họ lớn nổi tiếng ở khu vực Lưu Vệ. Vì vậy, cụ Hoàng Tính (Hoàng quý công) là khởi tổ của họ Hoàng ở Quảng Trạch ngày nay, mà Hoàng Bùi Hoàn là hậu duệ đời thứ 5.

Hoàng Bùi Hoàn sinh trưởng trong “dòng họ lớn, nổi tiếng giàu sang phong lưu, để tiếng thơm cho đời ở khu vực Lưu Vệ” thời bấy giờ. Thân phụ của ông là Hoàng Nhữ, tự Đạo Thuấn “là bậc kiên trinh sắt đá, đi theo chúa Trịnh khôi phục cơ đồ sự nghiệp nhà Lê Trung hưng, được phong Tán trị thừa chính sứ, Tả tham nghị, Đô đốc phủ, Phúc tài hầu. Khi mất, vua ban tên thụy là Đôn Mẫn phúc thần”. Thân mẫu của ông là Hoàng Quý thị, hiệu Trinh thục (không rõ tên huý). Bà sinh được 8 người con (5 trai, 3 gái), trai trưởng là Hoàng Bùi Hoàn.

Thuở nhỏ, Hoàng Bùi Hoàn đã chăm chỉ học hành, ngày đêm miệt mài kinh sử. Lớn lên, ông theo đường binh nghiệp, một lòng trung thành Phò giúp ba triều vua Lê: Gia Tông (1672 – 1676), Hy Tông (1676 – 1705) và Dụ Tông (1705 – 1729). Lúc đầu, ông được bổ dụng làm quan coi phủ An Trường, nội trấn Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hóa ngày nay), giữ chức Tư Lễ giám, Tổng Thái giám, Hữu Đô hiệu điểm, tước Quận công. Niên hiệu Bảo Thái (1720 – 1729) đời vua Lê Dụ Tông, ông làm Tả Đô đốc, gia phong Thái Bảo. Trải bốn mươi năm “ngôi cao chốn triều trung”, Hoàng Bùi Hoàn “tỏ rõ là người có năng lực, sáng suốt, đức sáng như ngọc, nhân phẩm trong như ngọc, không bè đảng, không thiên vị” (văn bia). Đối với bà con làng xã xa gần, ông chỉ bảo họ làm ăn sinh sống. Mỗi khi mùa màng thấp kém, ông xuất thóc gạo của nhà cứu giúp người nghèo đói. Ông còn “đầu tư công sức mở chợ Voi (Quảng Thịnh ngày nay) để dân buôn bán, xây đền - chùa miếu mạo ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn” (Gia phả). Vì vậy, ai nấy cũng “được đội ơn tiếng tăm danh vọng”.

Đối với gia đình, dòng tộc: “Anh em, con cái về phong độ cũng như tài sản, đất đai thì ông cũng đã dựng được thần tượng cao đẹp như tinh anh của núi sông chung đúc lên. Có ảnh hưởng tốt đối với người thân, có hiếu với bố mẹ, được phong tặng chữ “Hiếu”. Con cháu được thừa hưởng phúc ấm” (Văn bia).

Ông mất ngày 12 tháng 12 (không rõ năm), vua Lê Dụ Tông gia ân phong tặng “Thái phó, Vệ Quốc công, ban tên thụy là Mẫn Đạt” (Đại Nam nhất thống chí). Các triều vua về sau đều ban sắc phong tặng “Phúc thần thượng đẳng”. Để nhớ công đức, ơn nghĩa của Vệ Quốc công Hoàng Bùi Hoàn, ngay sau khi ông mất, nhân dân làng xã ở hai huyện Quảng Xương, Đông Sơn đã hiến công sức, tiền của để xây dựng đền miếu, lăng mộ và hương khói phụng thờ theo “điển phép nhà nước”. Đúng như câu đối ở đền thờ ông:

 “Miếu mạo nguy nga trường tồn từ thời chi báo

Uy danh hách dịch vĩnh thuỳ vạn thế chi linh” (1)

Tạm dịch:

      Đền miếu nguy nga trường tồn báo đáp cả bốn mùa hàng năm

      Uy danh hiển hách lưu truyền mãi đấng linh thiêng muôn thuở.

 Đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn được xây dựng ở thôn Câu Đồng nội, xã Quảng Trạch, phía trước đền giáp đường liên hương, phía tả - hữu và phía sau đền giáp dân cư. Theo nội dung hai tấm bia đá dựng ở đền thờ cho biết: Ngôi đền được xây dựng vào những năm 1724 – 1726, thời vua Lê Dụ Tông, mặt nhìn về hướng Nam, bố cục theo kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường (3 gian), chính tẩm (2 gian). Phía trước tiền đường là bái đường (sân), tiếp đó là hai tấm bia ghi dòng họ, thân thế sự nghiệp của Hoàng Bùi Hoàn, có nhà che bia làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái (nhà che bia đã bị phá). Phía ngoài cùng là bức bình phong và cổng vào đền. Ngoài ra, hai bên trục “thần đạo”(đường vào đền) có nhóm tượng bằng đá như: Voi, ngựa, chó đá, tượng võ sĩ được bài trí đăng đối.

 Về kiến trúc nhà tiền đường: Tuy công trình kiến trúc không lớn lắm, nhưng rất độc đáo, bởi lẽ kết cấu các vì kèo được hợp thành hai loại vật liệu đá và gỗ. Toàn bộ hệ thống cột nhà làm bằng đá hình, mỗi cạnh rộng 0,23m, chiều cao của cột 1,97m, chân tảng và cột là một khối đá liền được đục đẽo công phu, nên mỗi cột đá được đứng vững một cách độc lập. Trên mỗi cột đều khắc một vế đối trong khuôn ô định sẵn. Toàn bộ câu đối đều không có lạc khoản tất cả hợp thành một “rừng trụ đá” vững chắc để đỡ toàn bộ cấu kết phần trên của các vì kèo và mái nhà. Phần kèo (từ quá giang trở lên) làm bằng gỗ theo kiểu chồng rường, kẻ suốt. Các vì kèo liên kết với nhau bằng hai đường xà. Toàn bộ kết cấu phần vì kèo được đặt trên hệ thống cột đá. Đầu cột đá có đấu kê gỗ đỡ quá giang. Sự hòa nhập, ăn khớp, đồng điệu giữa thành phần kiến trúc đá và gỗ ở từng vì kèo là nét độc đáo về nghệ thuật kiến trúc ở Thanh Hóa đầu thế kỷ XVIII.

Nhà chính tẩm: là nơi đặt long ngai, bài vị của tướng công Hoàng Bùi Hoàn. Khác với nhà tiền đường, vì kèo của nhà chính tẩm làm bằng gỗ, kết cấu theo kiểu trốn cột nhằm tăng thêm chiều rộng của lòng nhà. Nghệ thuật kiến trúc không có gì đặc biệt.

 Ngoài kiến trúc đền thờ, ở đây còn có quần thể chạm khắc đá mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Trước hết, phải kể đến 2 tấm bia đá: bên tả là tấm bia “Tướng công bia ký”, bên hữu là tấm bia “Hoàng Bùi Tướng Công”, hai tấm bia đá còn khá nguyên vẹn.

Bia “Tướng Công bia ký” được làm bằng một khối đá nguyên được chạm trỗ tinh xảo. Bia cao 1,87m, rộng 1,15m, dày 0,37m, dựng trên bệ đá hình chữ nhật, khắc chữ 2 mặt. Bia dựng ngày lành, tháng 6, mùa Hè, năm Bảo Thái thứ 5 (1724), đời vua Lê Dụ Tông, do Tiến sĩ Lê Vỹ soạn văn bia.Nội dung mặt trước ghi: Các xã, thôn thuộc hai huyện Quảng Xương và Đông Sơn tôn thờ thần và dựng bia gồm: Câu Đồng Nội, Ngoại, Thượng, Hạ, Văn Trường, Thọ Lộc, Nhân Trạch, Đông Trung, Quảng Độ, Quang Chiếu, Ngọc Am, Thọ Sơn, Bất Quần, Mỹ Khê, Mỹ Trạch, Văn Lâm, Quảng Xuyên, Bất Vỹ...Hai riềm bia trang trí câu đối theo từng ô: “Minh công nhất phiến nhật tinh huy- tụng đức thiên hành khung ngưỡng cửu”, Nghĩa là: “Một phiến bia đá ghi rõ công lao ngày một sáng như trăng sao, nghìn hàng chữ thẳng ca tụng đức tài truyền mãi lâu dài”.

 Bia “Hoàng Bùi Tướng Công” cũng có kích cỡ, phong cách tạo tác giống “Tướng Công bia ký”, chỉ khác ở phần riềm trán bia có họa tiết hoa văn rồng hóa mây rõ nét hơn, đầu rồng được khắc lộ rõ mắt, mũi. Bia dựng vào tháng tốt, cuối mùa Hạ, niên hiệu Bảo Thái; năm thứ 7 (1726), do Tiến sĩ Lê Vỹ soạn văn bia. Người khắc bia: Nguyễn Văn Bạch, Nguyễn Văn Khuyến, người xã Kính Vương, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Nội dung văn bia: Phần đầu là bản khoán ước để mọi người các huyện Quảng Xương, Hoằng Hóa, Quảng Xương...phải tuân theo. Phần sau ca ngợi công đức của tướng công Hoàng Bùi Hoàn.

Nhóm tượng bằng đá được bài trí đối xứng hai bên trục thần đạo, gồm có: Hai tượng Chó đá có kích thước tương tự nhau, ngồi thế chầu, hai chân sau quỳ gối, hai chân trước ruỗi, mắt mở to, hai tai uốn cong về phía trước. Hai voi đá có kích thước khác nhau, được thể hiện trong tư thế quỳ phục chầu. Đặc biệt là đôi ngựa đá trong tư thế đứng chầu, cổ ngước cao, có 7 quả lục lạc, đeo sẵn yên cương được chạm khắc tinh tế, mềm mại.

Nhìn chung, nhóm tượng đá được bài trí ở đây không những mang tính chất chầu thờ, làm tăng thêm sự tôn nghiêm ở chốn miếu đường. Mà còn là những tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật điêu khắc đá truyền thống của một thời kỳ lịch sử.

Trong các tác phẩm điêu khắc đá ở đền thờ Hoàng Bùi Hoàn, phải kể đến các bàn thờ bằng đá bài trí trong đền, chúng được làm ra từ những khối đá liền được chạm khắc hoa văn cầu kỳ, tinh xảo. Đề tài trang trí ở bàn thờ là hình rồng, mây, hoa lá cách điệu.Đặc biệt là chiếc hương án bằng đá, đề tài trang trí ở đây được thể hiện 20 lớp gờ chỉ hoa văn, trang trí chủ đạo là lá đề, hoa chanh xen kẽ nhau, ở khoảng giữa được chia thành các ô chữ nhật, trong đó chạm hình nghê, rồng, phượng khá tỉ mĩ, lộ rõ từng móng vuốt. Trên mặt hương án là một cặp rồng chầu, ở giữa có hình tròn lớn lồng 4 hình tròn nhỏ, dựng đứng theo chiều dọc, đầu trên có sợi dây treo, đầu dưới có tua thắt chéo, chính giữa vòng lớn là hình hoa chanh 6 cánh. Điều đáng chú ý là lớp hoa văn thứ 12, các đố dọc mặt trước có 4 chữ: “Anh sảng túc khâm”, nghĩa là: “Anh linh thông suốt”. Mặt sau được trang trí các cây đào, mận, hoa hồng xen kẽ giữa các ô.

Ngoài việc xây dựng ngôi đền, nhân dân địa phương hai huyện Đông Sơn, Quảng Xương còn xây cất phần lăng mộ của Hoàng Bùi Hoàn bằng những phiến đá được gọt đẽo hết sức công phu. Lăng mộ có kích thước: dài 8,75m, rộng 8,75m, cao 1,35m, khu lăng mộ nằm trên cánh đồng Lăng, cách đền thờ 1km về phía Đông Nam. Vật liệu bao phong bằng các phiến đá hình chữ nhật có kích thước trung bình dài 60cm, rộng 30cm, dày 17cm, nhỏ nhất dài 40cm, rộng 30cm, dày 17cm, chất đá màu xanh đen, thành lăng xếp các lớp đá phiến dày 0,75m, không có vữa kết dích. Mặt thành đặt một lớp đá phiến hình chóp nón (rộng 50cm – cao 16cm, cành huyền 30cm), chiều dài trung bình từ 60cm – 70 cm, trong thành đá là phần mộ được đắp đất cao gần bằng thành.

Vào thế kỷ XVII, XVIII, ở Thanh Hóa đã phát hiện được nhiều lăng tẩm của các bậc văn thần võ tướng. Nhưng tất cả các lăng tẩm đó được dấu kín dưới lòng đất hoặc chỉ là gò đất nổi. Song, đối với lăng mộ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn là một trường hợp đặc biệt, ở đây, phần mộ được bao phong bởi 7 lớp đá nổi hẳn lên trên mặt đất.

Như vậy, thông qua lịch sử nhân vật cũng như hệ thống kiến trúc hiện còn, có thể thấy đền thờ Tướng Công Hoàng Bùi Hoàn là một di tích lịch sử hết sức có giá trị. Những mảng chạm khắc trên bia, đế chân quỳ được bố cục hài hòa, phần lớn soi chạm kép, nét chạm khắc tinh xảo, đường nét uyển chuyển mềm mại, thể hiện trí thông minh, tài sáng tạo và bút pháp nghề nghiệp điêu luyện của người thợ đục đá xứ Thanh thời bấy giờ. Đây là tác phẩm nghệ thuật thế kỷ XVIII còn được bảo tồn tương đối nguyên vẹn ở Thanh Hóa.

Qua biến cố lịch sử và thời gian, ngôi đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn,một thời bị tàn phá bởi chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt và nhất là sự xâm hại của con người đã làm cho ngôi đền bị hư hỏng nghiêm trọng và trở nên hoang tàn. Ngày 12 tháng 3 năm 2001, đền thờ - lăng mộ Tướng Công Hoàn Bùi Hoàn đã được Sở Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 170/QĐ - VHTT. Với sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,ngành văn hóa, cùng sự đóng góp cung tiến của con cháu dòng họ và khách thập phương,bước đầu ngôi đền đã được sửa sang, trùng tu, tôn tạo. Hy vọng trong thời gian không xa, ngôi đền thờ và lăng mộ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn sẽ được trùng tu tôn tạo khang trang, bề thế theo theo quy mô, diện mạo xưa, cũng là để:

 Thiên cổ ngưỡng soi tâm đức sáng

 Nghìn đời truyền mãi tiếng danh thơm(1)

 -----------

 


 

 

CHÙA BỒNG HINH

(Xã Quảng Trung)

 

Chùa Bồng Hinh nằm trên địa bàn làng Ngọc Trà, xã Hoa Lư cò, nay lµ lµng Ngäc Trµ, x· Quảng Trung, huyÖn Quảng Xương, tØnh Thanh Hóa. Theo truyÒn ng«n vào khoảng triều vua Trần Anh Tông (1293- 1313), tại trang Ngọc Giáp, xã Hoa Lư, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa có 3 ông mang 3 dòng họ vào đất Hoa Lư khai hoang lập ấp lµ ông Trịnh Đình Nguyên, Lê Viết Phú, Hoàng Công Thục.

T¹i vïng ®Êt Hoa L­, do thủy triều lên xuống đều đặn, cửa Lạch Ghép chảy vào Sông Yên, nên nguồn phù sa båi đắp ngày càng dày, c¸c ông ®· cùng cư dân mọi nơi đến khai hoang sinh sống, hình thành nên một cộng đồng dân cư trên dải đất ven sông Yên cuối huyện Quảng Xương ngày nay. D¶i ®Êt nµy cã tªn lµ §ồng Chùa hay Xóm Chùa. Chùa Bồng Hinh hình thành bằng cây cối đơn sơ, lợp bằng cỏ tranh, một bát hương thờ. VÒ lÞch sö chùa Bồng Hinh gắn liền với nhiều truyÒn thuyÕt trong dân gian từ xa xưa.

Truyện kể rằng, Lê Lợi mét lÇn cùng nghĩa quân đi dẹp giặc Chiêm Thành, khi qua đây, Nhµ vua cùng nghĩa quân dừng thuyền tại vực nghè Cầu, lạy đấng anh linh phù hộ, cho tướng sĩ đi đánh th¾ng giặc Chiêm. Qu¶ nhiªn trËn ®ã thắng giặc, Lê Lợi cùng nghĩa quân về đây tạ lễ.

Ngọc phả cña làng l¹i cßn cho biết thªm: năm Tân Mão, vào một đêm trăng mờ, có một cây gỗ to, da sần sùi như vảy rồng, thân gỗ màu vàng sÉm có hương thơm ngát (dân làng gọi là gỗ Hương Long) do trời næi giông tố, cây gỗ ®· tr«i dạt vào trước làng và được nhân dân trục vớt lên, nhân dân cho rằng ý trời muốn đóng góp cho d©n lµng xây dựng thành miếu thờ thÇn khang trang hơn.

§Õn thêi NguyÔn, vµo năm Quý Sửu - đời vua Tự Đức (1853), nhân lúc thanh nhàn đi vãn cảnh, hai ông là Lê Đình Triệu, Lê Đình Đức thÊy miÕu lµng ®¬n s¬ ®· cùng vợ của 2 ông là Phạm Thị Hòa, Phạm Thị Thuận phát tâm công đức xây dựng chùa.

Chùa có kiÕn tróc hình chữ Công, täa l¹c trên nền đất cao, diện tích gồm 2 mẫu 4 sào. Toµn bé khu«n viªn chïa gåm cã Chïa chÝnh; cæng Tam quan rộng 1m70, cao 3m97; có gác chuông rộng 0,50 m, cao 1m10; hai bên tam quan có 2 bức tường cao 2 m, dài 25 m; có cột tháp. VËt liÖu x©y dùng chïa b»ng g¹ch, ngãi, gç lim, ®¸. Chïa ®­îc bè trÝ thµnh c¸c ban thê PhËt, ban thê ng­êi cã c«ng dùng chïa ë nhµ HËu cung; ban thê Héi ®ång ch­ phËt ë nhµ TiÒn ®­êng; chïa cã 2 bia ghi c«ng ®øc ng­êi cã c«ng (hai ông Lê Đình Triệu, Lê Đình Đức).

VÒ sinh ho¹t lÔ héi ë chïa, hàng năm vào ngày 22 tháng 12 ¢m lịch, các cư dân làm nghề chài lưới trên sông tụ tập về trước làng sắm lễ nghi lên chùa cúng bái, cầu tâm linh, khỏe mạnh, làm ăn phát tài lộc.

Hàng năm vào các kỳ thi, con em trong làng đều về chùa để dâng hương lễ phật, cầu nguyện đức Thánh Hiền. Hàng năm tỉ lệ học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày một nhiều hơn.

Trong những năm cả nước chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra Miền Bắc, chùa dùng để hội họp cho làng, đặt lớp học mẫu giáo, làm kho đựng lúa… Sân chùa làm nơi trục lúa, phơi rơm rạ. Giai đoạn 1964 đến năm 1972, chùa là nơi ®Æt Ban chỉ huy cầu Phà Ghép, cầu phao Ngọc Trà, là nơi cứu chữa thương binh.

Qua thăng trầm của thời gian, ngôi chùa bị xuống cấp toàn bộ, diện tích khuôn viên thực tại chỉ còn 738 m2.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân làng Ngọc Trà cùng toàn thể các cụ cao tuổi, Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ xã Quảng Trung đã vận động nhân dân địa phương cùng những nhà hảo tâm tiến hành trùng tu, tôn tạo lại ngôi chùa. Chùa Bồng Hinh được xây dựng hai gian hậu cung, tường gạch gỗ, làm mái với ba gian tiền đường trên nền đất cũ. Phần tôn tạo chủ yếu do công đức của nhân dân trong làng, xã, con cháu xa quê hương cung tiến để xây dựng. Ngoài ra còn có các pho tượng phật Quan Âm Bồ Tát, tòa cửu long, Hộ Pháp, Đức Ông, Thánh Hiền, đức Địa Tạng...

Di tích lịch sử văn hóa chùa Bồng Hinh đã được UBND tỉnh ra Quyết định số 3283 ngày 19 tháng 10 năm 2004 công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

 

 


 

 

BẾN PHÀ GHÉP - DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG

(Xã Quảng Trung)

 

Trên đất nước Việt Nam, địa danh lịch sử bến Ghép là biểu tượng cho ý chí, nghị lực phi thường, lòng dũng cảm, trí thông minh, sự hi sinh thầm lặng mà to lớn của quân và dân Quảng Xương nói riêng, nhân dân Thanh Hóa nói chung chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, thông suốt của hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng.

Bến Phà Ghép nằm trên tuyến Quốc lộ 1A, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa 23km về phía Nam. Phía Bắc thuộc xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương, phía Nam thuộc xã Hải Châu, huyện Tĩnh Gia. Ở vị trí đó, bến Ghép là nơi dòng sông Yên chạy qua. Sông Yên nằm trong một hệ thống của nhiều con sông hợp thành, bắt nguồn từ vùng núi Như Xuân, chạy qua nhiều huyện, đổ vào sông Yên ở địa phận Quảng Xương và chảy ra biển ở cửa Lạch Ghép. Nằm trên trục đường chính Bắc – Nam và là vị trí chuyển tiếp giữa các giải đất và các con sông trong đất liền của Thanh Hóa, Phà Ghép là một điểm trọng yếu của cả đường sông, đường bộ và đường sắt. Điều đó cắt nghĩa tại sao sau khi mở rộng chiến tranh ra cả nước thì ở miền Bắc, mục tiêu đánh phá của không quân và hải quân Mỹ là các cây cầu mà Bến Ghép là một địa điểm đánh phá ác liệt.

Vào giữa năm 1965, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã mở rộng ra các tỉnh phía Bắc, nhất là từ Thanh Hóa trở vào. Mục tiêu đánh phá chủ yếu là hệ thống giao thông vận tải, dù chỉ là một tuyến đường mòn, một cây cầu nhỏ, một chiếc thuyền nan, một bóng người..., khi chúng phát hiện đều bị dội bom. Bến Ghép và cả hệ thống giao thông chiến lược xung quanh đều bị bom đạn đến mức hủy diệt.

Cuộc đụng đầu quyết liệt bắt đầu từ ngày 3 – 4/4/1965 của bộ đội, thanh niên xung phong, dân quân, công nhân giao thông ở hai bên bờ bến Ghép quả là một cuộc đụng đầu lịch sử. Lực lượng ta được bố trí trên bến Ghép bao gồm: Thanh niên xung phong, công nhân giao thông, bộ đội chủ lực, dân quân địa phương (nòng cốt là đại đội C94 Quảng Xương) làm nhiệm vụ bắn máy bay địch, bảo vệ cầu phà, bến bãi, bảo vệ hàng hóa, tính mạng và tài sản của nhân dân, mở đường, sửa chữa đường sá, cầu phà, đảm bảo giao thông. Nhân dân hai bên bờ bến Ghép thuộc hai huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia là lực lượng chi viện cho công nhân, thanh niên xung phong khi có chiến sự xảy ra.

Ngoài bến chính là phà Ghép, thanh niên xung phong được giao mở thêm 2 tuyến đường cầu phà mới song song với bến Ghép (đường và bến Phà Ngọc Trà, đường và bến Phà Hải Châu) với quyết tâm không để cho giao thông bị ngưng trệ. Bến Ghép có thể xem như là túi bom của giặc Mỹ và pháo tầm xa của Hạm đội 7 trên biển. Qua 8 năm tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc của giặc Mỹ, chúng đã dội xuống khu vực bến Ghép gần 38.000 quả bom các loại (bao gồm bom phá, bom bi mẹ, bom từ trường, bom khoan, rốc két, tên lửa...). Trong tọa độ đánh phá tập trung của giặc Mỹ, ta phải chịu hơn một tấn bom/1 mét vuông, các xóm làng phía bắc bến Ghép hầu như bị hủy diệt, trẻ em, người già phải đi sơ tán, lực lượng thanh niên, đoàn viên, dân quân tự vệ ở lại dưới những mái hầm luôn chắc tay cày, vững tay súng. Nhiều đoạn đường ở bến Ghép bị hủy diệt do bom đạn giặc Mỹ nhưng chỉ sau vài giờ là được khôi phục lại.

Điểm nổi bật ở bến Ghép qua 8 năm chiến tranh khói lửa là chúng ta đánh thắng Mỹ, lập nhiều chiến công, mạch máu giao thông không bao giờ bị ngưng trệ. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Địch phá, ta sửa, ta đi”. Dù ác liệt của bom đạn là vậy nhưng quân dân bến Ghép vẫn bảo đảm được tính mạng của con người. Điều đó biểu hiện ở tư thế hiên ngang, tự tin của quân và dân ta trong đánh giặc. Tại Bến phà này, lịch sử còn ghi mãi những tấm gương như Anh hùng Vũ Hồng Út, người công nhân bến Phà đã cảm tử lái ca nô phá bom từ trường của địch để giải phóng lòng sông, bến bãi; Đại đội dân quân C94 được thành lập 1972 đã bắn rơi 5 máy bay siêu âm hiện đại của địch; và đặc biệt là gương người thiến niên anh hùng Nguyễn Bá Ngọc quê xã Quảng Trung quên mình cứu các em nhỏ và đã hi sinh anh dũng.

Qua gần 3.000 ngày đêm đọ sức với không quân và hải quân Mỹ, bến Ghép đã trở thành điểm hội tụ của các đơn vị và cá nhân anh hùng. Đó là bến Phà 3 – 4, đại hội dân quân C94, đơn vị nữ dân quân Thanh Thủy (Tĩnh Gia), anh Vũ Hồng Út, liệt sỹ Nguyễn Bá Ngọc... Nhân dân và lực lượng vũ trang các xã xung quanh bến Ghép cũng đã trở thành đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như: Quảng Trung, Quảng Chính, Quảng Khê, Quảng Nham, Quảng Thạch...

Bến Ghép cùng với dòng sông Yên, một trong những con đường máu do đoàn thuyền nan gồm 3.000 thanh niên tình nguyện vật lộn với bom đạn Mỹ trên sông nước và sự phối hợp của đội thanh niên xung phong 263 trên tuyến Quốc lộ 1A từ Còng vào tận khe nước Lạnh (Nghệ An). Có thể nói, cùng với Hàm Rồng - Nam Ngạn, bến Ghép là đầu mối, một điểm nóng, điểm sáng của vùng “Thanh địa” thời đánh Mỹ từng làm cho kẻ địch khiếp vía, kinh hồn và chịu nhiều thất bại.

Hơn 45 năm đã trôi qua, bến Ghép giờ đây đã thay da đổi thịt rất nhiều, được thay thế bằng cây cầu Ghép làm bằng xi măng, cốt thép, sừng sừng vượt dòng sông Yên nối liền hai bờ của hai huyện Quảng Xương - Tĩnh Gia. Những địa danh nổi tiếng một thời oanh liệt trong những năm đánh Mỹ còn găm những vết thương của chiến tranh đã nhường chỗ cho màu xanh của cây lúa, cây ngô, những cánh đồng tôm, khu dịch vụ... Sự sống đã trả lại màu xanh cho nó và khoả lấp những tàn phá chết chóc, ô tô các loại chạy rầm rập, lao vun vút như đã quên hẳn bom đạn chiến tranh ngày hôm qua. Ai tính được những giá trị mất mát đau thương, những tháng năm tuổi trẻ của đời mình, của những chàng trai, cô gái mà họ phải chịu đựng.

Phà Ghép xứng đáng là một địa danh lịch sử thời đánh Mỹ. Ở đó nếu không được dựng lên một tượng đài tưởng niệm những người con của tổ quốc đã anh dũng hi sinh, không có một tấm bia ghi những tội ác tày trời do đế quốc Mỹ gây ra trong một cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, hẳn sẽ là một thiếu sót đối với sự thực lịch sử oanh liệt mà quân và dân ta đã trải qua trong những tháng năm ác liệt của cuộc chiến tranh.

Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp và những chiến công của những con người đã chiến đấu trên bến Ghép anh hùng năm xưa mãi mãi vẫn còn là niềm tự hào của các thế hệ người Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung, nhất là thế hệ trẻ trong việc giáo dục truyền thống đánh giặc và lòng yêu quê hương đất nước của mình. Đó là một sự thật lịch sử gắn một mốc vàng son trong sự nghiệp cứu nước, bảo vệ đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam mà mỗi thế hệ kế tiếp có sứ mệnh kế thừa, làm rạng rỡ thêm truyền thống đánh giặc, giữ nước qua mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam anh hùng.


 

 

NHÀ THỜ THÁI BẢO

ĐÔNG QUẬN CÔNG NGUYỄN THIỆN

(Xã Quảng Trường)

 

Nhà thờ họ Nguyễn Đức là nơi thờ Thái bảo Đông quận công Nguyễn Thiện, hiện ở thôn Châu Thanh, xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Trước năm 1945 thôn Châu Thanh có tên gọi là: thôn Hà Niểu, xã Thạch Phương, tổng Thái Lai, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa.

Đất Thạch Phương xưa và đất Quảng Trường ngày nay là một vùng đất ven sông bồi tụ. Vùng đất nằm bên tả ngạn sông Yên, một con sông bắt nguồn từ miền tây Thanh Hóa qua huyện Như Xuân, Nông Cống xuống cửa lạch Ghép. Tính theo đường chim bay, vùng đất Quảng Trường chỉ cách biển Đông không đến 5 km. Như vậy, vùng đất Quảng Trường là vùng đất mở trong nhiều thế kỷ trước. Vùng đất này luôn luôn trong quá trình bồi đắp đất đai và mở rộng xóm làng định cư. Điều này được khẳng định, quan sát thấy các con hón, lạch của sông Yên chảy vào trong đồng ruộng còn để lại một lớp vỏ sò, hàu, rất dày nằm cách mặt đất canh tác ngày nay sâu khoảng 30 - 40 cm, tuy là vùng đất bồi tụ nhưng Quảng Trường lại nằm dưới chân dãy núi Trường, nằm phía Tây Nam của xã. Có thể nói xóm làng nơi đây được hình thành từ các chân núi và được liên tục mở rộng ra phía biển và dựa vào núi Trường làm điểm tựa.

Ngày nay, đến nhà thờ Nguyễn Thiện, có thể đi theo tuyến đường từ Thành phố Thanh Hóa qua huyện lỵ Quảng Xương trên tuyến đường Quốc lộ 1A, sau đó rẽ phải theo con đường liên xã từ Quảng Hòa qua Quảng Hợp đến với phòng tuyến Văn Trinh nổi tiếng xưa kia của Trần Nhật Duật trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thời Trần, từ Quảng Hợp đi tiếp đến Quảng Ngọc đến Quảng Trường nơi có di tích nhà thờ Nguyễn Thiện.

Căn cứ vào các tài liệu nhà thờ như: Sắc phong năm Minh Mạng thứ 9 (1924), bài vị, biển phù và các tài liệu gia phả của dòng họ Nguyễn tại nhà thờ, nhân vật thờ ở đây là Nguyễn Thiện (còn gọi là Nguyễn Chính Thiện, Lê Thiện, Nguyễn Tuấn Thiện (1401 - 1494).

Năm 1424, Lê Lợi mở cuộc tiến chiến lược vào Nghệ An theo kế hoạch của Nguyễn Chích để xây dựng căn cứ vững mạnh cho cuộc kháng chiến. Sau các chiến thắng Trà Lương, Bố Ái, Khả Lưu (tháng 10 năm 1424) nghĩa quân Lam Sơn đã làm chủ tình thế, vây hãm thành Nghệ An, tiến hành giải phóng các châu huyện. Chính trong khoảng thời gian này (đầu năm 1425) nghĩa quân của Lê Lợi đã tiến vào huyện Đỗ Gia (Hương Sơn), nhân dân trong vùng đã nhất tề nổi dậy giải phóng quê hương và tích cực ủng hộ nghĩa quân. Người anh hùng địa phương cầm đầu cuộc khởi nghĩa này là Nguyễn Tuấn Thiện, quê ở thôn Phúc Đậu - xã Phúc Dương (nay là xã Sơn Phúc - huyện Hương Sơn - tỉnh Hà Tĩnh) ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ, ông cha đều sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và săn bắn. Từ nhỏ ông đã mồ côi cha nên ông phải giúp mẹ kiếm ăn, lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, quê hương bị đè nặng dưới ách thống trị của giặc Minh, Nguyễn Tuấn Thiện nuôi chí diệt thù cứu nước, ông và một số bạn bè cùng chí hướng ra sức luyện tập võ nghệ, binh pháp, chờ đợi thời cơ.

Được tin nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An, Nguyễn Tuấn Thiện huy động nhân dân địa phương nổi dậy khởi nghĩa. Ông lập đội quân Cốc Sơn (núi Cốc là nơi quê hương ông) để bảo vệ xóm làng, khi quân Lam Sơn tiến vào Đồ Gia, Nguyễn Tuấn Thiện chỉ huy quân Cốc Sơn cùng phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn nhanh chóng giải phóng quê hương.

Lê Lợi đã thu nạp Nguyễn Tuấn Thiện và kết nghĩa anh em. Hai người cắt tóc, giết ngựa trắng ăn thề nguyện một lòng chung sức giết giặc cứu nước. Lễ thề đơn giản những thiêng liêng được tổ chức ngay dưới gốc cây Thị ở cạnh nhà Nguyễn Tuấn Thiện.

Nguyên âm:

             Thề phát thì bạch mã

             Tuyên thệ tại thị căn

             Nguyện đồng tâm đồng chí

             Phá tặc trúc thạch bàn.

 Dịch nghĩa:

             Cắt tóc giết ngựa trắng

             Dưới gốc thị thề nguyền

             Nguyện đồng tâm đồng chí

             Phá giặc xây cơ đồ.

Từ đó Nguyễn Tuấn Thiện mang họ Lê Thiện, một tướng lĩnh xuất sắc của nghĩa quân Lam Sơn.

Tuy trong sử sách không ghi chép về Nguyễn Tuấn Thiện hay Lê Thiện, nhưng qua nhiều năm nghiên cứu, giới sử học đã thống nhất Nguyễn Thiện hay Lê Thiện là một nhân vật có thật và làm một tướng soái cao cấp của Nghĩa quân Lam Sơn. Các tài liệu chính là: Gia phả dòng họ Nguyễn ở Phúc Đậu và các nhánh khác.

Như vậy là một vài thế kỷ trước, một chi nhánh của dòng họ Nguyễn ở Hương Sơn- Hà Tĩnh đi di cư đến vùng đất Quảng Trường xưa định cư ở đây. Tại đây, trải qua nhiều đời, con cháu đã lập nhà thờ Tướng quân Nguyễn Tuấn Thiện.

Các đời sau, con cháu họ Nguyễn ở Quảng Trường đã nhiều lần tấu trình lên các triều đại ban tặng sắc phong cho ông tổ Nguyễn Thiện, nhưng đến nay chỉ còn lại sắc phong của Khải Định năm thứ 9 (1924). Như vậy, Nguyễn Tuấn Thiện hay Lê Thiện là một Khai quốc công thần thời Lê đã có nhiều đóng góp lớn với dân tộc và được nhiều nơi tôn thờ cho đến nay ít nhất cho chúng ta biết được có 3 nơi thờ ông đó là: ở Hương Sơn quê ông, ở huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc và ở xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. 

Đây là loại di tích lưu niệm và tôn thờ một danh tướng. Trước đây nhà thờ tướng quân Nguyễn Tuấn Thiện là một kiến trúc cổ, nhưng đến nay qua mưa nắng, thời gian ngôi nhà đó không còn nữa và hiện tại là một ngôi nhà ngói được thay thế trên nền đất cũ xưa. Phía Tây nhà thờ là dãy núi Trường, phía Nam trước mặt nhà thờ có con hón nhỏ từ núi Trường chảy ra sông tạo thành thế bao quanh nhà thờ.

Di tích nhà thờ tướng quân Nguyễn Tuấn Thiện ở xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương có giá trị khoa học, lịch sử hết sức quý giá. Bằng những tài liệu còn lưu trữ được ở nhà thờ như sắc phong, thần phả, bài vị và các tài liệu về danh tướng Nguyễn Tuấn Thiện hay là Lê Thiện - Khai quốc công thần triều Lê đã có nhiều đóng góp trong công cuộc chống quân Minh ở thế kỷ XV đưa nước ta bước vào kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ nhất trong lịch sử chế độ phong kiến ở Việt Nam. Với giá trị lịch sử văn hóa của di tích, nhà thờ Thái Bảo Đông Quận công Nguyễn Thiện đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số: 154/QĐ-VHTT, ngày 26 tháng 4 năm 1996.

 

 

 


 

 

TỪ ĐƯỜNG HỌ VŨ

(Xã Quảng Trường)

 

 Từ đường họ Vũ (hay nhà thờ họ Vũ) tại thôn Phúc Thượng, huyện Ngọc Sơn trước đây, nay là thôn Đồng Tiến, xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa là nơi thờ Vũ Hiền, một danh tướng có nhiều công lao trải bốn triều vua: Lê Trung Tông (1549 – 1556), Lê Anh Tông (1557 – 15783), Lê Thế Tông (1573 – 1600) và Lê Kính Tông (1600 – 1619). Sách “Thanh Hóa chư thần lục” được công bố ngày 15 tháng 10 năm Thành Thái thứ 15 (1903) chép: “Vũ Hiền Đại tướng quân tôn thần, thôn Phú Thượng, huyện Ngọc Sơn thờ”. Đến di tích theo Quốc lộ 1A từ trung tâm huyện Quảng Xương đi về phía Nam khoảng 3 km đến Cống Trúc thuộc xã Quảng Bình, Quảng Ninh, rẽ theo hướng phải theo Quốc lộ 47 đến núi Văn Trinh (Quảng Hợp) đi qua chợ Hội (xã Quảng Ngọc) đến trung tâm xã Quảng Trường. Từ đây, rẽ về hướng Đông khoảng 1km là tới Từ đường họ Vũ. Các loại phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp đi đến di tích rất thuận tiện.

 Thôn Đồng Tiến, xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa là một vùng đất cổ,có bề dày lịch sử văn hóa ở phía Nam huyện Quảng Xương. Phía Bắc giáp Quảng Ngọc, phía Nam giáp Sông Yên, phía Đông giáp xã Quảng Lĩnh và Quảng Khê, phía Tây giáp xã Quảng Vọng. Đây là một vùng đất thế núi hình sông hữu tình, thơ mộng. Với ba ngọn núi: Quán Chẹt, Hòa Trường, Văn Trinh tạo thành thế chân kiềng vùng phía Nam của huyện giữ vị trí đặc biệt quan trọng về mặt quân sự. Hệ thống sông Lý được hình thành từ thế kỷ X – XI là tuyến đường thủy từ Bắc vào phía Nam, lại gần kề tuyến đường bộ Bắc - Nam hết sức thuận lợi. Chính vì thế trong lịch sử dựng nước và giữ nước, vùng đất Đồng Tiến nói riêng, Quảng Trường nói chung đã chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng diễn ra, điển hình nhất là công cuộc khai khẩn đất đai trở thành điền trang thái ấp của Trần Nhật Duật ở thế kỷ XIII.

Theo Gia phả dòng họ Vũ xã Quảng Trường cho biết: Dòng họ ở làng Bao Hàm, xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình di cư vào làm ăn sinh sống ở vùng đất Quảng Trường vào thời gian nào chưa rõ, dần dần con cháu ngày càng đông đúc,trở thành một dòng họ lớn ở vùng đất này.

 Ông Vũ Hiền - không rõ sinh năm nào ? Lớn lên, ông tiến thân theo con đường binh nghiệp. Vào cuối niên hiệu Thuận Bình (1549 -  1556), đời vua Lê Trung Tông, Vũ Hiền đi theo Trịnh Kiểm đánh quân Mạc lập nhiều chiến công. Đến thời vua Lê Anh Tông, vào năm Chính Trị thứ 2 (1559), ông được phong tước Vĩnh Quốc công. Từ đó về sau ông tham gia nhiều chiến trận, từng chỉ huy quân Trịnh tiến ra đánh phá quân Mạc ở Mỹ Lương, Bất Bạc (Sơn Tây), Hữu Lũng, Phượng Nhân (Kinh Bắc)...Đến đời vua Lê Thế Tông (1573 - 1600), ông dốc lòng vì việc quân, một lòng tôn phò phụng sự cơ đồ sự nghiệp nhà Lê Trung hưng. Đến năm Quang Hưng thứ 4 (1581), ông chỉ huy đội quân đánh thắng đại quân Mạc Đôn Nhượng ở Đường Năng. Năm Quang Hưng thứ 15 (1592), ông làm tướng kỳ giáp hữu dinh trong quân Trịnh Tùng dẫn 15 nghĩa quân binh tướng tiến đánh vào Cầu Dền đánh quân Mạc Mậu Hợp, bắt sống tướng Mạc là Nguyễn Quyên thu phục Đông kinh (Thăng Long). Năm Quang Hưng thứ 16 (1593), vua Lê Thế Tông trở lại kinh đô, do có nhiều công lao, ông được vua phong chức Hữu tướng. Năm Quang Hưng thứ 21 (1598),ông đem quân đánh ở dư đảng Mạc Kính Cung ở Lạng Sơn, ít lâu sau, ông được thăng chức Đại tướng quân. Năm Hoàng Định thứ 2 (1602),thời vua Lê Kính Tông (1600 – 1619), nhà vua sai ông đi kinh lược xứ Hải Dương.Trong thời gian lưu trấn ở Hải Dương, ông đã đánh dẹp tàn quân nhà Mạc, đồng thời chiêu dụ dân lưu tán trở về quê cũ làm ăn, khuyến khích dân chúng khôi phục sản xuất. Vì thế cuộc sống của dân chúng trong vùng được yên ổn.

Sau đó, ông được Nhà vua cho về quê nghỉ dưỡng tuổi già và ban cho quyền cai quản 1000 hộ dân (Thiên hộ) ở Lộc Trúc với 2 mục đích là vừa ghi nhớ công ơn ông trong việc trung hưng đất nước, mặt khác cũng là trông nom một vùng đất được xem là “phên dậu” phía Nam đất nước. Sau khi được ban tước cao, lộc hậu,Vũ Hiền đã về thôn Bao Hàm, xã Thụy Lương, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đưa hài cốt bố đẻ của mình theo đường thủy về táng ở một thế đất đẹp (Đồng Lang) thuộc làng Lương Đồng. Đây cũng chính là trang ấp do ông Vũ Hiền khai phá.

Sau khi ông mất, dân chúng trong vùng lập đền hương khói phụng thờ và tôn ông làm Thành hoàng làng. Nhà vua ban sắc gia phong cho ông là “Đốc đồng tướng quân”, có công “Dực bảo trung hưng” tức là phò vua giúp cho sự hưng thịnh của đất nước. (Sắc phong thời Thành Thái).

Theo lời kể của các cụ cao niên ở địa phương: Từ đường họ Vũ xây dựng trên một khu đất cao ráo, rộng rãi thoáng mát ở làng Đồng Tiến,có diện tích khoảng 7 sào trung bộ. Từ đường được kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh” (J ), bao gồm tiền đường (5 gian) và hậu cung (2 gian). Nhà tiền đường và hậu cung được làm bằng gỗ quý, tường nhà xây bằng gạch, mái lợp ngói mũi (ngói ta). Phía trước từ đường là hồ, ao (gọi là Ao đình). Trong nhà thờ bài trí nhiều đồ thờ được chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Trải qua nhiều biến cố lịch sử, từ đường họ Vũ bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng toàn bộ đồ thờ và các hiện vật của di tích đã được chuyển về thờ trong ngôi nhà người tộc trưởng Vũ Ngọc Thành để hương khói thờ phụng Đại tướng quân Vũ Hiền. Hàng năm cứ đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch, con cháu hậu duệ dòng tộc họ Vũ ở mọi miền đất nước và khách thập phương lại trở về bên từ đường để tổ chức lễ tế Tổ rất trang trọng.

Căn cứ nội dung, giá trị lịch sử của di tích Đại tướng quân Vũ Hiền, ngày 3 tháng 8 năm 1998, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa đã ra Quyết định số 233/QĐ-VHTT công nhận Từ đường họ Vũ, xã Quảng Trường là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Đến nay, Từ đường họ Vũ được xây dựng lại trên khu đất của từ đường cũ, với diện tích khoảng 200 m2, gồm 3 gian theo kiểu “tiền Âu – hậu Á”. Ngày 16 tháng Giêng năm Canh Dần (2010), dòng họ Vũ được phép của chính quyền địa phương đã long trọng làm lễ rước vong linh cụ Vũ Hiền cùng các vị tiên tổ từ nhà trưởng tộc về Từ đường mới xây dựng lại trên mảnh đất xưa để thờ cúng.

Hiện nay, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Quảng Xương, chính quyền xã Quảng Trường đã có Nghị quyết về lập quy hoạch xây dựng và tôn tạo khu di tích ngày một khang trang. Đó cũng là để tôn vinh và tri ân đối với các tiền nhân đã có công với nước với dân và lưu truyền cho hậu thế.

 

 


 

 

NGHÈ DU VỊNH

(Xã Quảng Vinh)

 

Nghè Du Vịnh còn có tên gọi khác là (Nghè Ba Mươi) thuộc làng Nho Quan, xã Du Vịnh xưa, nay thuộc thôn Thắng Phú, là một trong ba làng Trường Lệ, Nho Quan, Du Vịnh thuộc xã Quảng Vinh ngày nay, tên xã Quảng Vinh có từ năm 1954.

Nghè Du Vịnh đã được UBND tỉnh Thanh Hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 318 /QĐ-UBND ngày 4 tháng 2 năm 2009.

Thời Trần, vùng đất Quảng Vinh hiện nay thuộc hương Yên Duyên. Làng Du Vịnh thời Hậu Lê có tên gọi là Du Vịnh Sở, đầu thời Nguyễn là xã Du Vịnh, tổng Giặc Thượng. Đến đời vua Đồng Khánh (1858 - 1888) xã Du Vịnh được tách làm 2 đơn vị hành chính gồm: xã Du Vịnh (nơi dân cư ở trước) và sở Du Vịnh (vùng đất khai khẩn thời Hậu Lê) thuộc tổng Cung Thượng. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, các làng Trường Lệ, Du Vịnh, Nho Quan hợp thành xã Nho Quan, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Đến năm 1947, các làng trên thuộc xã Bạch Đằng, xã Lê Viên và xã Lãnh Phiên hợp thành xã Quảng Châu. Từ năm 1954 Quảng Châu chia làm 3 xã: xã Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu, xã Lê Viên thành xã Quảng Thọ, xã Bạch Đằng thành xã Quảng Vinh.

Sách Thanh Hóa chư thần lục của Quốc sử quán triều nguyễn ghi: Làng Du Vịnh thờ vị thần La Thượng Anh Minh tôn thần.

Thần tích kể rằng: Thần không rõ họ tên, quê quán, đời nhà Trần đến ở vùng Đông Bắc huyện Vĩnh Xương (Quảng Xương) giúp cư dân địa phương khai phá đất hoang, lập nên trang Thượng Khu, thuộc hương Yên Duyên, phủ Thanh Hoa. Bấy giờ, cửa sông Mã khi triều lên mênh mông trời nước, các loài tôm cá nhiều không kể xiết, thần giỏi nghề đan dệt, truyền dạy cho dân Nho Quan, Du Vịnh cách trồng gai, xe sợi, đan dệt te, lưới, vó. Từ khi có ruộng đất và công cụ đánh bắt cá tôm, đời sống nhân dân được no ấm, sau thần tự nhiên hóa, dân xin triều đình cho lập miếu thờ để đền đáp công ơn. Lúc thần còn sống, thích uống rượu, lúc nào cũng mang một hũ rượu bên mình, vừa làm việc, vừa uống rượu như một thói quen không thể bỏ. Vì thế, người ta gọi thần là "Ông Lưới", sau thành "Ông Lưới hay rượu" hoặc "Ông Thích Rót". Dựa vào những biệt danh này, triều đình ban cho thần hiệu chữ Hán "La Luyến Chiểu Chước tôn thần", hiểu nôm na là "vị nhân thần the lưới thích rót rượu". Nhân dân xem chữ "La Luyến" như tên huý của thần được Nhà vua ban, nên kiêng từ "La", nói, đọc chệch là "Lô", từ "Luyến" nói đọc chệch là "Luyện", thành "Lô Luyện Chiểu Chước tôn thần".

Làng ở giáp sông, kề biển, thường bị bọn cướp sông, cướp bể ban đêm đi thuyền bất ngờ cập bờ, đốt đuốc kéo vào nhà dân tìm thấy thứ gì lấy thứ ấy, từ manh quần tấm áo, đồng tiền bát gạo, đến lợn gà, trâu bò…ai chống cự, chúng giết ngay, trang ấp Thượng Khu trở nên tàn tạ, hoang vắng, dân chúng bèn cầu khấn thần phật, xin chư vị phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Một đêm, bọn cướp quen đường mò đến cướp bóc, bỗng nghe trong rừng núi Trường Lệ có tiếng hổ lang gầm thét dữ dội, rồi trong ánh đuốc mờ mờ tỏ tỏ, giặc cướp thấy vô số hùm beo kéo ra từng đàn, từng lũ, nhe nanh múa vuốt, chúng liền sợ hãi tháo chạy, không dám quay lại. Từ đó, dân làng thoát nạn cướp sông, cướp bể, nhưng lại nổi lên nạn lũ qủy ôn, qủy dịch gây bệnh tật chết người hại của, có nhà không một ai sống sót, nhiều gia đình phải bồng bế, dắt díu nhau chạy trốn. Có người ốm gần chết bò đến tận miếu, cố đập đầu ba cái vào bệ thờ kêu rằng: "Ông Lô ơi! con dân của ông sắp chết hết cả rồi, thật phí công bấy lâu thờ cúng!", rồi mệt quá, gục xuống thiếp đi, mộng thấy thần nhân bảo: " Lũ qủy đói khát đòi ăn, hãy sắm sửa thuyền bè, cho ăn rồi mới đuổi đi được!". Người ấy chợt tỉnh, kể lại, dân làng bèn làm theo lời thần báo mộng, quả nhiên làng xóm được yên ổn. Từ đó thành lệ, đầu năm, làng tế thần cầu yên, khao ôn tống thuyền, việc cầu đảo đều linh ứng.

Thời Hậu Lê, quân Mạc xâm phạm trấn Thanh Hoa, theo cửa sông Mã và huyện Quảng Xương, chiếm cứ làng Đường Nang (nay thuộc xã Quảng Cát). Triều đình sai tướng sĩ đánh dẹp không được nên khẩn cầu thần linh giúp sức. Vào đêm rằm, viên tướng triều đình mộng thấy một thần nhân tự xưng là "La Luyến Chiểu Chước tôn thần" hiến kế đêm sau mật phục các ngả, thần sẽ hiển linh trợ giúp, tỉnh dậy, viên tướng làm theo lời thần. Đêm ấy, quân Mạc đang ngủ, bỗng thấy một người oai vệ như thiên thần, cưỡi trên lưng con hổ lang cực lớn xông thẳng vào đồn trại, quăng lưới vó chụp ngay đầu chủ tướng, theo sau hổ còn rất nhiều hùm beo. Quân Mạc khôn xiết kinh hoàng, mạnh ai nấy chạy, phục binh quân triều đình nổi dậy đánh chặn các ngả đường, chỉ một trận, quân Mạc thua tan.

Thắng trận, viên tướng tâu lên vua Lê, xin ban thưởng cho vị thần cưỡi hổ, quăng lưới bắt giặc. Nhà vua thấy thần hiệu "La Luyến Chiểu Chước" không được hay, bèn ban thêm mấy chữ "La Thượng Anh Minh" thành " La Thượng Anh Minh La Luyến Chiểu Chước tôn thần". Lại ban cho một trăm quan tiền để tu sửa nghè miếu. Đến triều Nguyễn, triều đình xét công lao thần phù trợ vua Gia Long thống nhất quốc gia, sắc phong cho thần làm thần thành hoàng và ban ba mươi sáu quan tiền dùng vào việc mua sắm đèn hương, lễ vật thờ phụng.

Nghè Du Vịnh còn có tên là Nghè Ba Mươi, theo truyền thuyết kể lại rằng: vào đêm 30 tết, khi Hải tặc vào cướp phá dân làng, thần đã báo mộng cho dân và suốt đêm hôm đó thần cưỡi hổ cùng dân làng đánh giặc, phóng lửa thiêu cháy quân giặc sáng rực cả một góc trời. Giặc tan, thần hóa, từ đó dân được sống yên ổn, dân làng nhớ công ơn bèn lập miếu thờ, gọi là "Nghè Ba Mươi" để ghi nhớ sự tích thần đánh giặc.

Theo các cụ già trong làng cho biết, trước đây, khi chưa bị phá hủy, Nghè Du Vịnh là một ngôi Nghè có quy mô lớn nhất xã Quảng Vinh. Nghè tọa lạc tại Cồn Nương, trung tâm làng Du Vịnh xưa, nhìn về hướng Đông Nam trên một diện tích 3.300m2. Phía Bắc và phía Đông là đường liên thôn, phía Nam có rạch nước tiêu thủy cho cả vùng Quảng Minh, Quảng Cát, phía Tây là đồng lúa của làng Du Vịnh.

Nghè cũ được xây dựng từ thời Lê, kiến trúc kiểu chữ Đinh (J), bao gồm nhà tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế 5 gian với 4 vì kèo gỗ, cấu trúc theo kiểu "chồng rường kẻ bẩy" gồm 2 hàng cột cái (12 cột) và 2 hàng cột quân (12 cột), xung quanh thưng ván dổi, mái lợp ngói âm dương, rui mè bằng gỗ lim, trên bộ khung nhà được chạm khắc phong phú các trang trí theo các đề tài tứ linh, tứ quý, mây cụm, vân xoắn hoa lá… truyền thống.

Tại nhà tiền tế có một hương án lớn, bộ chấp kích, một hòm gỗ để lưu giữ các bài văn tế, thơ văn của các nhân sĩ đề vịnh. Đồ tế khí còn có 2 lư hương bằng đồng, 2 đôi hạc lớn đứng trên lưng rùa, 2 ngựa đá, 2 ngựa gỗ kích thước như thật, 2 đôi đèn lồng, ô lộng, quân cờ và hàng chục bát hương gốm, đá có hoa văn trang trí rất phong phú.

Ở vị trí cột cái ngoài tiền tế treo 4 câu đối ở gian giữa, trên cao là bức hoành phi "Vạn cổ anh linh".

Nối liền với nhà tiền tế là nhà hậu cung gồm 3 gian cột lim đứng 2 hàng tiếp giáp với nhà tiền tế. Khoảng cách giữa nhà tiền tế và hậu cung là máng nước đá có 2 cột đá vuông chống đỡ, xung quanh được bao bằng đá vuông.

Ở hậu cung có 3 bàn thờ lớn (còn gọi là hương án hay cỗ ỷ) đặt theo thứ tự từ cao xuống thấp, có 2 đôi câu đối, 1 hòm đựng sắc phong để lưu giữ thần phả, sắc phong.

Sân Nghè lát gạch bát và là nơi để bồn hoa, cây cảnh. Ngăn cách tường sân với vườn là hàng cây lá nhỏ được cắt xén vuông vức.

Năm 1960, do biến động của công cuộc bài phong, Nghè bị tháo dỡ hoàn toàn, các đồ tế khí như ngựa gỗ, hạc, rùa, câu đối, hoành phi, lư hương, đế đèn thờ… thất lạc hết.

Tháng 4 năm 2006, trên cơ sở tìm lại được những hiện vật cổ của Nghè, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng lại Nghè trên nền đất cũ với nhà hậu cung dài 5,1m; rộng 3,4m, diện tích 24m2 gồm 2 gian xây bằng gạch, mái lợp ngói, nóc mái có 3 chữ Hán đắp nổi màu đen "Nghè Ba Mươi", trên đỉnh đắp lưỡng long chầu nhật.

Trong Nghè chỉ đặt một bàn thờ ở gian giữa, ngai chính giữa thờ vị thần La Thượng Anh Minh La Luyện Chiểu Chước tôn thần, bàn thờ được bày kiếm thờ, hạc thờ, các đồ tế khí khác như chân đèn, đài nước, mâm bồng, khay mịch, chuông đồng nhỏ,…Đặc biệt, trong Nghè còn lưu giữ được 2 tấm bia đá: 1 tấm bia Hậu ghi việc đóng góp tiền, ruộng xây dựng Nghè và 1 bia Văn chỉ của làng được soạn dưới đời vua Tự Đức thứ 31 (1878).

Về tấm bia Hậu tại Nghè Ba Mươi (bia mờ dòng lạc khoản): Cao 75cm; rộng 45cm; dày 7cm, không khắc trán và viền. Bia hiện vỡ làm 4 mảnh, một mảnh đã mất, người dân gắn nhầm mảnh vỡ của bia khác vào, hiện nay hầu hết các chữ đã mờ. Do vậy, chỉ lược dịch theo những chữ hiện có trên bia, những chữ bị mất sẽ đánh móc vuông.

Nội dung bia như sau:

- Đất Phúc Đình ở xứ Nường Đông…[…]

      - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) tại xứ Hiệu Hậu 1 sào… […] - 100 quan do ông quan triều Lê…………An […]

      - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) tại xứ Nường Đông 1 sào… […]…… 36 quan do bản làng […]

      Bản giáp thủ chỉ là ông Nguyễn Văn thử, Nguyễn Văn? Trần... […], Cầu Văn Phát, Nguyễn Văn Sâm, Đỗ Hữu Phổ, Nguyễn Văn Phả, Đỗ Hữu Thủ, Trần Công Nan…[…]

Cựu lý trưởng thủ bạ là ông Trần Trọng Đôn cùng trên dưới […]

Tấm bia Văn chỉ của làng hiện cũng được lưu giữ tại Nghè Ba Mươi, soạn vào năm Mậu Dần, niên hiệu Tự Đức thứ 31. Kích thước bia cao 80cm; rộng 48cm; dày 9cm, (1878), nội dung những thông tin trên bia không liên quan đến Nghè Ba Mươi nhưng trong đó phản ánh tín ngưỡng tâm linh, văn hóa và truyền thống Nho học ở làng Du Vịnh xưa.

Qua việc tìm hiểu những ghi chép còn đọc được trên 2 tấm bia tuy không đầy đủ, nhưng những thông tin ít ỏi này cũng cho chúng ta biết rằng, dân làng Du Vịnh và các vị chức sắc lấy sự quyên góp tiền tài, ruộng đất giúp cho việc thờ cúng thần thánh ở Nghè Ba Mươi.

Xem xét hệ thống thần linh được thờ ở các làng ven biển Thanh Hóa, trong đó có làng Du Vịnh, mới thấy hết sự đa dạng trong đời sống lịch sử, văn hóa của cư dân nơi đây.

- Nghè Du Vịnh thờ La Thượng Anh Minh tôn thần.

- Làng Du Vịnh thờ các thần: Độc Cước tôn thần, Nam Phương tôn thần, Đông Phương tôn thần, Đài Hoàng Quang Minh Ôn Nhiệm tôn thần, Minh Tự hiển ứng tôn thần.

Theo lệ xưa, hàng năm, làng Du Vịnh tổ chức lễ hội Rằm tháng Giêng, thượng hạ điền, cơm mới, tất niên với hát văn, hát cầu, múa lân để tế vị thần hoàng của làng và tổ chức các trò chơi dân gian… đã nói lên tính cố kết khá bền vững của các dòng họ trong cộng đồng cư dân Du Vịnh xưa. Việc tổ chức lễ hội được tất cả các dòng họ tham gia và có nghĩa vụ đóng góp công, của. Ở đây, vừa có nghi lễ cầu Sơn thần phù hộ cho chân cứng đá mềm, vừa có nghi lễ cầu Thủy thần cho sóng yên gió lặng, vừa có lễ cầu Ngư, lại vừa có lễ Đảo vũ, đấy chính là những nét đặc sắc của văn hóa làng biển.

Nghè Du Vịnh sau mấy trăm năm tồn tại nơi đầu sóng ngọn gió, trải qua những thử thách của thiên nhiên và nhiều biến cố lịch sử, Nghè đã bị mất đi nhiều di vật cổ, quy mô kiến trúc của Nghè cũng không được bề thế như xưa, nhưng những chứng tích còn lại của Nghè đã làm sống lại một giá trị văn hóa, đời sống tinh thần phong phú của làng Du Vịnh xưa.

 

 

 


 

 

ĐỀN THỜ TƯỚNG QUÂN HOÀNG MINH TỰ

(Xã Quảng Vinh)

 

Làng Trường Lệ còn có tên là Kẻ Trường, nay thuộc xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương. Trước cách mạng, Kẻ Trường cùng với Nho Quan, Du Vịnh thuộc xã Nho Quan, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương. Đến năm 1947, các làng trên thuộc xã Bạch Đằng, xã Lê Viên và xã Lãnh Phiên hợp thành xã Quảng Châu. Từ năm 1954, Quảng Châu chia làm 3 xã: xã Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu, xã Lê Viên thành xã Quảng Thọ, xã Bạch Đằng đổi thành xã Quảng Vinh.

Làng Trường Lệ có nhiều dòng họ sinh sống như: họ Hoàng, họ Vũ, họ Trịnh, họ Văn, họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm. Trong làng có 3 ngôi đền, trong đó có 2 ngôi đền thờ 1 vị thần có tên là "Hoàng Minh Tự Đại vương Thượng đẳng tối linh thần". Đó là đền Ao Bến và đền Hạ (đền thờ Tướng quân Hoàng Minh Tự).

Đền Ao Bến đồng thời là lăng mộ của Hoàng Minh Tự Đại vương, là dạng “thượng sàng hạ mộ”. Mặt trước đền là cánh đồng rộng lớn, trên cánh đồng có 5 cái cồn cách đều nhau tạo thành một cánh cung phía trước, các cụ gọi là Ngũ nhạc. Phía bên phải đền là sông nhà Lê, bên trái là dải đất hình chim phượng chầu. Sau đền có 3 cồn đất tạo thành Tam Sơn, tiếp theo Tam Sơn là núi Trường Lệ. Ngôi đền Hạ nằm phía đông nam làng, nhìn ra vụng Tiên, lấy Hòn Câu làm án. Hai ngôi đền này cách nhau khoảng 1km.

Theo truyền thuyết của nhân dân và gia phả của họ Hoàng thôn Trường Lệ, thần có tên hiệu Minh Tự, được phong Thượng đẳng Tối linh thần. Thần họ Hoàng, tên Hiển theo Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn, được tin dùng giao cho trọng trách trông nom hậu cần, quân lương. Trong những lúc khó khăn, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, Ngài đã tỏ rõ lòng trung thành tận tụy với triều đình, thể hiện bản lĩnh của một vị tướng tài. Sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, triều đình nhà Trần đã phong tặng hai chữ "Minh Tự". Ngài đưa toàn bộ gia quyến về định cư tại làng Trường Lệ, còn Ngài ở lại quân ngũ cho đến cuối đời.

Sau khi Ngài mất, được vua Trần phong tặng “Đại vương tôn thần", thi hài mai táng tại thôn Trường Lệ. Vua sức cho dân Trường Lệ lập đền thờ và cấp cho 60 quan tiền để xây dựng đền, hàng năm cho 3 suất sái tảo (quét dọn, chăm sóc đèn hương), được trừ vào số binh dịch mà dân làng đóng góp cho triều đình.

Trải các triều đại, đền Hoàng Minh Tự đều có sắc phong, phong tặng "Hộ quốc tỷ dân. Dực bảo trung hưng thượng đẳng thần"; sắc phong cao nhất là "Đại vương thượng đẳng Tối linh thần".

Xưa kia, đền Hoàng Minh Tự có quy mô bề thế, mặt bằng kiến trúc hình chữ Tam, gồm tiền đường, trung đường và hậu cung, xung quanh có tường bao bọc. Trải qua thời gian, hậu cung sụt lở, trung đường và tiền đường bị phá hủy. Hiện tại, Đền đã được nhân dân và chính quyền địa phương tôn tạo, tuy chưa được như xưa, nhưng cũng đáp ứng được nhu cầu văn hóa tín ngưỡng tinh thần của nhân dân trong làng.

 Đền Ao Bến trước đây kiến trúc hình chữ Nhị, gồm tiền đường và hậu cung, tiền đường có chiều dài 6,2m; rộng 3,7m, nay chỉ còn lại hậu cung, dưới là mộ phần.

Đền thờ Tướng quân Hoàng Minh Tự đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa theo Quyết định số 114/QĐ - VHTT ngày 25 tháng 5 năm 1994 của Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa.


 

 

NGHÈ NGỌC NHỊ

(Xã Quảng Vọng)

 

Quảng Vọng là xã nằm về phía Nam huyện Quảng Xư­ơng, gồm 3 làng: Ngọc Nhị, Văn Sơn và Phúc Tâm, phía Đông giáp xã Quảng Trường, phía Tây giáp xã Quảng Phúc, sông Yên bao quanh địa phận của xã từ phía Nam sang phía Tây và là ranh giới giữa 2 huyện Quảng X­ương và Nông Cống. Thôn Ngọc Nhị ngày nay, thời Lý - Trần gọi là Ngọc Nhị khu thuộc trang Ngọc Lịch; đến Thời Lê - Nguyễn gọi là thôn Ngọc Nhị thuộc xã Ngọc Lịch, tổng Ngọc Đới, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Ngọc Lịch sáp nhập với xã Ngọc Đới gọi là xã Quang Phục, huyện Quảng X­ương. Từ sau năm 1954,xã Quang Phục chia thành 2 xã Quảng Phúc và Quảng Vọng. Ngày nay, làng Ngọc Nhị thuộc xã Quảng Vọng.

Xưa nay, dân làng Ngọc Nhị rất tôn sùng ngưỡng mộ và tôn thờ hai vị thành hoàng làng là: Hồng Thánh Đức uy Vũ dũng Đại vương Nguyễn Hồng, danh tướng thời Lý (nhân thần) và vị thần là Thiên thần. Hai vị thần được thờ chung trong một ngôi đền, nhân dân địa phương thường gọi là Nghè.

 Về danh tướng Nguyễn Hồng: Trong bản “Phả tích Ngọc Nhị” do Đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn năm Hồng Đức năm đầu (1470) đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), về sau Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) cho biết: Nguyễn Hồng, người làng Ngọc Nhị, sinh vào giờ Tý, ngày mùng Hai tháng 6 năm Nhâm Tuất (?). Thân phụ của ông là Nguyễn Nghiêm “chỉ ham mê đèn sách”. Thân mẫu là Phạm Thị Toàn ‘làm nghề buôn bán tôm cá” để kiếm sống.

Thuở thiếu thời, ông có tướng mạo khác thường “mặt vuông, tai to, tay dài, thân cao 7 thước”. Lớn lên, ông “học hành thông minh, thiên tư dĩnh ngộ, thiên sử bách gia, không có gì là không thấu hiểu”. Năm 21 tuổi, ông tỏ ra là người “văn chương thông tường, võ nghệ thành tài, mưu trí thao lược”. Tiếng tăm về ông vang đến tận triều đình. Nhà vua liền cho vời ông vào triều yết kiến. Thấy ông “diện mạo phi thường, tài danh chấn thế”, Nhà vua bèn phong cho ông làm Đô uý, Thái bảo, rồi sai ông đi trấn thủ hai trấn Thanh Hoa và Nghệ An.

Bấy giờ ở trấn Thanh Hoa, Nghệ An nạn trộm cướp nổi lên nhiều nơi, đe dọa cuộc sống bình yên của dân thường. Nghe tiếng ông đến cai quản trong vùng, bọn trộm cướp phải qui phục, không dám hoành hành trắng trợn như trước. Vùng biên giới nước ta ở phía Nam, giặc Chiêm Thành thường xuyên xâm lấn đất đai, cướp đoạt tài sản của dân, N hà vua trao cho ông “tiết việt”, phong làm Phụ quốc Thái uý, dẫn quân đi đánh dẹp. Khi đi qua làng Ngọc Nhị, ông bị lâm bệnh đột ngột rồi mất vào ngày 11 tháng 11 (không rõ năm). Nghe tin ông mất, Nhà vua rất thương tiếc, liền sai các quan trong triều về làng Ngọc Nhị làm lễ an táng và phong tặng là “Bậc công thần có công to lớn với nước với dân”, lại cấp 37 quan tiền cho dân làng dùng vào việc hương hỏa và ban sắc phong tặng ông là “Đương cảnh Thành hoàng Hồng thánh đức uy vũ dũng Đại vương”, cho phép dân làng thờ phụng thần theo điển phép nhà nước. Đến thời hậu Trần, vua Trần Quý Khoáng (1409 – 1413) có lần đi qua làng Ngọc Nhị đã vào Nghè mật cầu rất linh ứng và gia tặng cho thần là “Thượng Thượng đẳng Phúc thần”. Từ đó về sau, các triều vua Lê và Nguyễn đều ban sắc phong tặng.

Về sự tích vị Thiên thần, đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép cụ thể. Trong 7 tờ sắc phong thời Nguyễn phong cho thần là “Đương cảnh Thành hoàng bảo dân, hộ quốc, bậc trung đẳng thần”, với các mỹ tự “cảm ứng tối linh thánh tích hựu suy ân đức quảng phù vận thệ, nối trải trợ quốc cứu dân, thuần cảm trinh khiết, mẫu tích đoan chính, thông minh chính trực. Bản miếu nguyên tặng Đô minh, chính đại, huyền diệu thanh hư­, gia tặng Linh phù dực bảo trung h­­ưng Thiên thần,Trung đẳng Thần”.

Theo “Phả tích Ngọc Nhị”, nghè Ngọc Nhị “ Dựng ngồi ph­ương Quí, hướng Đinh”, tức h­ướng Nam, trên khu đất cao ráo, thoáng đãng ở rìa làng Ngọc Nhị. Ngôi mộ của Ngài mặt nhìn h­ướng Đông, cách phía tây Nghinh môn khoảng 70 m,trong quần thể của khu di tích hiện nay.

 Về quy mô kiến trúc của Nghè trước đây: Gồm nhà tiền đường và chính tẩm bố cục theo hình chữ “Đinh”. Phía trước tiền đường có bái đường (sân nghè), hai dãy nhà tả vu - hữu vu, bình phong và nghinh môn hai tầng tám mái. Chung quanh nghè có t­ường bao che. Nhà tiền đ­ường 5 gian, 2 chái, kết cấu vì kèo theo kiểu “chồng rường - bẩy kẻ”. Đề tài trang trí trên các thành phần kiến trúc là: Long- Ly- Quy- Ph­ượng, hoa lá cách điệu. Đầu phía Tây và phía Đông có chạm hổ phù. Trong nhà tiền đường bài trí bàn thờ Hội đồng bằng đá, tiếp đến là bàn thờ bằng gỗ cao hơn bàn đá, có đôi hạc đứng trên lưng rùa đứng hai bên. Hai bên bài trí bộ bát bửu; phía trên có treo bức Đại tự ghi 3 chữ Hán: “Đức Kỳ Thịnh”. Ở gian chái phía Tây để r­ương kiệu, trong r­ương kiệu để 2 bộ quân cờ ng­ười. Tiếp gian chái để d­ường cầu: dài 4m, rộng 2m. có 3 tầng để phân tầng vai vế để ngồi. Gian chái phía Đông để nhạc lễ, gian kề đó là nơi chia phần. Nhà chính tẩm có 3 gian, là nơi để h­ương án, bàn thờ, long cung. Trong long cung có long ngai, Thánh vị, đôi hài quan võ, mũ, áo và long đao. Ở nhà chính tẩm có hai chiếc đẳng, một chiếc chóe đựng nước chuyên dùng để lấy nước cúng tế. Tr­ước Nghinh môn cách về phía Nam 3 m có bức bình phong, mặt phía Nam có 2 con Hổ chầu, phía trong có đôi Rồng.

Hiện nay, kiến trúc Nghinh môn hai tầng tám mái, các đầu đao uốn cong, bia ký, vẫn đ­ược bảo tồn nguyên trạng. Cùng với kiến trúc Nghinh môn, trên nền bái đ­ường (Sân) con 2 tấm bia đá. Tấm bia thứ nhất (cao 1,35 m, rộng 0,64m, dày 0,05m) ghi đức nghiệp của Thần, bia đựng trên bệ đá hình chữ nhật, nhiều chữ, hoa văn trang trí quanh rìềm bia đã bị mờ. Bia thứ hai (cao 1,3m, rộng 0,68m, dày 0,10m) ghi tên những ng­ười cung tiến trong việc xây dựng Nghè. Trán bia trang trí “ Mặt hổ phù”, riềm bia trang trí hoa cúc dây cách điệu. Bên cạnh đó còn một số chân tảng đá hình bầu đèn, bát h­ương đá, cột đá, sạp hương án bằng đá (rộng 1,35m - dài 1,72m - dày 0,12m), các thềm rồng bằng đá.

Trong số đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng như Long ngai, Bài vị, Kiệu Long đình… đáng chú ý nhất là chiếc H­ương án. Về kích th­ước, h­ương án dài 2m, cao 2m, rộng 0,85m, bố cục thành 3 tầng, mỗi tầng đ­ược chia thành các ô nhỏ, trong mỗi ô đều chạm nổi hình tứ quí: Long - Ly - Qui - Ph­ượng và hoa lá cách điệu, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo, đường nét phóng khoáng, mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Có thể nói, H­ương án nghè Ngọc Nhị là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc hoàn mỹ còn được bảo tồn nguyên vẹn.

      Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đặc biệt do yêu cầu mở mang tuyến giao thông liên xã theo qui hoạch phát triển nông thôn ở những năm 70 của thế kỷ này, qui mô của Nghè bị thu hẹp lại. Nhà chính tẩm (nơi đặt Long cung, Long ngai, bài vị của hai vị thần) nằm đúng vị trí con đư­ờng mới buộc phải tháo dỡ. Vì thế, toàn bộ đồ thờ nh­ư long ngai, bài vị, h­ương án… phải dồn chất vào Nghinh môn. Từ đó dân làng Ngọc Nhị lấy Nghinh môn của Nghè làm nơi thờ tự, tế lễ. Một số đồ thờ dễ bị h­ư hỏng phải gửi vào các nhà thờ họ trong làng để bảo quản, đến kỳ Đại lễ mới bài trí ở Nghinh môn để tế thần.

Tuy nghè Ngọc Nhị không còn nguyên vẹn như­ xư­a, nh­ưng những gì còn lại là bằng cứ lịch sử hùng hồn chứng minh truyền thống lịch sử, văn hóa trí thông minh và tài sáng tạo của ngư­ời dân Ngọc Nhị trong quá trình dựng nước và giữ n­ước. Đó là những di sản văn hóa rất đáng đ­ược bảo tồn để phát huy tác dụng như­ Luật Di sản văn hóa đã ban hành.

Nghè Ngọc Nhị đã đ­ược xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 54/QĐ-VHTT ngày 22 tháng 02 năm 2000 của Sở Văn hóa - Thông Tin tỉnh Thanh Hóa (nay là Sở Văn hóa,Thể Thao và Du lịch). Đến năm 2004, nghè Ngọc Nhị đã được tu sửa, tôn tạo bằng nguồn vốn của Nhà n­ước và địa ph­ương với tổng kinh phí gần 150 triệu đồng. Hiện tại đã phục hồi đ­ược nhà tiền đ­ường, nhà chính tẩm để có nơi đặt đồ thờ và có vị trí cho nhân dân thắp h­ương, tổ chức lễ hội.

Hàng năm, cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa ph­ương, và con em xã Quảng Vọng đang học tập, công tác, sinh sống ở mọi miền Tổ quốc vẫn tiếp tục đầu tư­, hỗ trợ kinh phí để trùng tu tôn tạo khu di tích. Chính vì vậy, quy mô của Nghè đ­ược mở rộng với diện tích 2104m2. Năm 2008, xã Quảng Vọng đã đầu t­ư 13 triệu đồng xây dựng ngôi mộ của T­ướng quân Nguyễn Hồng (xây bao xung quanh ngôi mộ), diện tích 12 m2. Hiện tại đang đ­ược Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa quan tâm giúp đỡ đầu tư­ gần 2 tỷ đồng trùng tu tôn tạo khu di tích nghè Ngọc Nhị. Hàng năm, địa phương tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống nhằm phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa trong sự nghiệp xây dựng xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Nghị quyết của Đảng đã đề ra.

 

 

 


 

 

BIA ĐÁ PHỦ CẢNH

(Xã Quảng Yên)

 

Làng Phủ Cảnh, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương ngày nay, thời Lê là nơi được chọn để xây dựng văn chỉ thờ đức thánh Khổng. Vì thế miếu thờ này gọi là “Văn thánh phủ Cảnh”. Thời Lê Mạt, vận nước suy tàn nên văn thánh phủ Cảnh không được chú trọng như trước nữa. Đến nhà Tây Sơn (1788 – 1802), vua Quang Trung chủ trương chấn hưng Nho giáo, mở mang việc học xuống tận xã, thôn. Vì thế, ngoài văn miếu cả nước, các văn thánh tỉnh, phủ, văn chỉ hàng huyện, hàng xã đều được coi trọng, sửa sang.

Vào cuối năm Đinh Tỵ (1797), trấn thủ Nguyễn Quang Bàn xét thấy văn thánh phủ Tĩnh Gia gồm 3 huyện Ngọc Sơn, Nông Cống, Quảng Xương bị hư hỏng, nên ông cho làm lại với quy mô lớn hơn. Khởi công xây dựng vào mùa đông năm 1797, đến mùa xuân năm Mậu Ngọ (1789) thì xong. Qui mô kiến trúc văn thánh phủ Cảnh gồm: “tẩm miếu 5 gian. Trong tẩm miếu thờ đức thánh Khổng, bốn vị cao đồ và 72 học trò giỏi. Ngoài tiền đường, gian giữa đặt hương án thờ các bậc tiên nho trong phủ hạt, hai bên chải chiếu làm nơi hội họp của các quan chức làng văn. Tiền đường mở ra sân vuông lát gạch, cổng vào một cửa; hai bên sân có hai nhà giải vũ, chỗ làm việc của giám thủ, phó giám thủ và sái phu”(*). Ngoài ra còn tạc hai tấm bia dựng trên sân, hai bên tả hữu để ghi lại sự kiện này.

Khi nhà Tây Sơn đổ, Gia Long hạ lệnh triệt phá tất cả những gì có liên quan đến nhà Tây Sơn, tấm bia phía nam ca tụng công đức Tây Sơn, quan viên hàng phủ không dám để, đập vỡ từng mảnh nhỏ đem chôn rải rác nhiều nơi. Còn lại tấm bia phía bắc thì chỉ đục bỏ tên người, niên hiệu có thể che mắt triều đình nhà Nguyễn. Về sau phủ Cảnh trở nên hoang tàn, các công trình kiến trúc trước đây chỉ còn lại vết tích của những nền móng và gạch ngói, di tích phủ Cảnh còn lại hai con rùa đá và tấm bia.

Tấm bia còn lại được làm bằng đá núi Nhồi, “cao khoảng 1,80m, dày 0,20m, rộng 0,90m. Mũ bia hình lá sen khum khum, trùm rộng ra ngoài lòng bia mỗi bên khoảng 5 - 8 cm. Giữa mũ bia là hình bông sen, có hai lớp hoa cách điệu hình kỷ hà. Hình mũ bia hay mái bia này kể cả chóp sen cao 50 cm. Phần đế bia tam cấp cao 40 cm, cấp dưới cùng dài gần 100 cm, cấp trên nhất 91 cm. Đóng khung lấy lòng bia là hai đường gờ nổi vuông cạnh, tượng hình hai cuống sen mọc từ dưới nước (bệ tam cấp là 3 lớp thủy ba). Toàn bộ cấu trúc bia là một cụm sen được cách điệu khá cao và được biểu hiện bằng những mảng khối đơn sơ, chắc khỏe”(*). Nội dung văn bia như sau:

Dịch nghĩa: "Quan khâm sai Thanh Hóa nội trấn thủ là Hoàng Thái tử tuyên quận công Nguyễn Quang Bàn kể.

Do miếu Văn thánh ở phủ Tĩnh Gia đã quá lâu năm, nên hư hỏng đổ nát, vâng lệnh trên, mùa đông năm Đinh Tỵ 1797 khởi công xây dựng lại, đến mùa xuân năm Mậu Ngọ 1798 hoàn thành, làm lễ cáo Thánh, đồng thời lại sửa sang, mua sắm thêm các đồ thờ cúng tế để đủ cung cấp cho việc thờ cúng, xong xuôi bèn khắc vào đá để truyền lâu dài.

Con trai vua Quang Trung này còn tiến dâng một quả chuông lớn, một trống lớn có đầy đủ giá treo và có người trông coi quét dọn, giữ gìn việc thờ cúng chu đáo.

Ngày tốt tháng Tư năm Mậu Ngọ 1798, năm thứ 6 triều vua Cảnh thịnh, Hoàng thái tử Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn thừa lệnh làm bia này”.

Nội dung văn bia văn thánh phủ Cảnh cho biết việc xây dựng lại miếu theo lệnh của Khâm sai Thanh Hoa nội trấn trấn thủ Hoàng thái tử Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn để nêu cao đạo học và lưu truyền công tích mãi về sau. Nội dung văn bia còn cho biết, ngoài việc mua sắm đầy đủ đồ tế khí, Nguyễn Quang Bàn còn cúng vào phủ miếu một quả chuông đồng to, một trống cái lớn, kèm giá treo.

Đến năm 1999, tấm bia đá phủ Cảnh đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 53/QĐ - VHTT ngày 9 tháng 2 năm 1999 của Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hóa (nay là Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch).

Tháng 3 năm 2003, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng nhà che bia để tấm bia phủ Cảnh trường tồn cùng thời gian và lịch sử.

 


 

 

MỤC LỤC

Trang

LỜI GIỚI THIỆU.. 7

1 - Từ đường dòng họ Nguyễn Công (Xã Quảng Cát). 9

2 - Chùa Yên Cát - khu Nghĩa Trũng (Xã Quảng Cát). 11

3 - Đền thờ An Dương Vương và Mỵ Châu (Xã Quảng Châu). 15

4 - Mộ - nhà bia - nơi thờ lãnh phiên (Vũ Đình Phiên)                                      (Xã Quảng Châu)  20

5 - Nghè làng Kiều (Xã Quảng Châu). 27

6 - Nghè Sày (Xã Quảng Châu). 35

7 - Đền Xuân Phương (Xã Quảng Châu). 40

8 - Di tích lịch sử, cách mạng địa điểm cây Đa làng Si                                    (Xã Quảng Chính)  46

9 - Đình Mỹ Lâm (Xã Quảng Đại). 50

10 - Đền thờ Đông Hải đại vương Nguyễn Phục (Xã Quảng Đại). 54

11 - Nhà thờ dòng họ Thừa nơi thờ Thừa Văn Mông                                (Xã Quảng Đại)  58

12 - Từ đường họ Trần (Xã Quảng Đức). 61

13 - Ngôi nhà cổ của gia đình ông Lê Văn Ngạn (Xã Quảng Định). 64

14 - Đình - chùa làng Bùi (Xã Quảng Giao). 67

15 - Đền Nghiêm (Xã Quảng Giao). 73

16 - Chùa An Đông (Yên Đông) (Xã Quảng Hải). 77

17 - Đền thờ Đông Hải đại vương Nguyễn Phục (Xã Quảng Hải). 81

18 - Từ đường họ Đinh Trọng (Xã Quảng Hòa). 84

19 - Núi Văn Trinh - đền thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật                       (Xã Quảng Hợp)  89

20 - Chùa Kênh (chùa Hưng Phúc) (Xã Quảng Hùng). 96

21 - Nhà thờ tướng quân Lê Đình Khiêm (Xã Quảng Khê). 101

22 - Nhà ông Nguyễn Đức Thuần di tích lịch sử cách mạng                                 (Xã Quảng Khê)  104

23 - Đền thờ Bùi Kim Tương (Xã Quảng Lộc). 108

24 - Chùa Mậu Xương - Tuyết Phong Tự (Xã Quảng Lưu). 111

25 - Đền thờ Nguyễn Hữu Huân (Xã Quảng Lưu). 120

26 - Đình làng Bất Động (Xã Quảng Ngọc). 124

27 - Đền Phúc và bia Tây Sơn (Xã Quảng Nham). 126

28 - Đền thờ tướng quân Lê Đăng Tiệm (Xã Quảng Nhân). 133

29 - Đền Thạch Trụ đại vương (Xã Quảng Phúc). 136

30 - Mộ và đền Thái tế Bùi Sỹ Lâm (Xã Quảng Tân). 143

31 - Đền thờ và bia mộ quận công Lê Bùi Vị (Xã Quảng Tân). 148

32 - Từ đường dòng họ Lê Thiên (Xã Quảng Tân). 152

33 - Đền Đồn Điền (Xã Quảng Thái). 155

34 - Đền Ông - làng Hà Đông (Xã Quảng Thái). 159

35 - Từ đường chi 3 dòng họ Nguyễn Đức (Xã Quảng Thịnh). 163

36 - Di tích và danh thắng núi Voi (Xã Quảng Thịnh). 167

37 - Nghè Đệ Tứ - di tích lịch sử cách mạng (Xã Quảng Thọ). 173

38 - Hòa Chúng (xã Quảng Thọ) quê hương cách mạng. 178

39 - Nghè Thọ Đài (Xã Quảng Thọ). 183

40 - Đền thờ - lăng mộ tướng công Hoàng Bùi Hoàn                                    (Xã Quảng Trạch)  186

41 - Chùa Bồng Hinh (Xã Quảng Trung). 193

42 - Bến Phà Ghép - di tích lịch sử cách mạng (Xã Quảng Trung). 196

43 - Nhà thờ Thái Bảo Đông quận công Nguyễn Thiện                                          (Xã Quảng Trường)  200

44 - Từ đường họ Vũ (Xã Quảng Trường). 204

45 - Nghè Du Vịnh (Xã Quảng Vinh). 208

46 - Đền thờ tướng quân Hoàng Minh Tự (Xã Quảng Vinh). 215

47 - Nghè Ngọc Nhị (Xã Quảng Vọng). 217

48 - Bia đá Phủ Cảnh (Xã Quảng Yên). 222

 

 

 

 

 

 

 


NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA

248 - Trần Phú - P. Ba Đình - TP. Thanh Hóa

Điện thoại: (037)3852.281 - 3722.347 - 3853.548

Fax: (037)3853.548

E-mail: nxbthanhhoa@yahoo.com

 

 

 

DI TÍCH

DANH THẮNG

HUYỆN QUẢNG XƯƠNG

Tập 1

 

Chịu trách nhiệm xuất bản

Nguyễn Hữu Chúc

 

Biên tập:              Ths. Vũ Quốc Oai

Vẽ bìa:           Họa sĩ Lê Minh Châu

Trình bày:                     Thanh Tuấn

Sửa bản in:                  Vũ Quốc Oai

TƯ LIỆU ẢNH

Nguyễn Văn Hải     - Phó trưởng ban quản lý DT - DT tỉnhải

 

Lê Minh Châu        - Cán bộ phòng VH&TT

Đinh Trọng Anh     - Cán bộ Trung tâm VHTT-TDTT

 

Chế bản tại phòng KHSXKD - Nhà xuất bản Thanh Hóa

Điện thoại: (037)3853.548    

In: 720 cuốn, khổ 16 x 24 cm, tại X­ưởng in Nhà xuất bản Nông nghiệp. Số ĐKKHXB: 235 - 2010/CXB/21 - 356/ThaH, ngày 11 tháng 3 năm 2010. QĐ xuất bản số: 438/QĐ-ThaH, ngày 31 tháng 12 năm 2010. In xong và nộp l­ưu chiểu Qúy I năm 2011.

 



      (1). Tra tìm trong các sách Khoa bảng Việt Nam, chúng tôi chưa tìm thấy vị Tiến sĩ nào có tên là Quản Di Đài, thi đỗ vào giai đoạn cuối triều Lê Trung Hưng.

      (1). Nghĩa chữ Hán, chữ Bùi gồm hai chữ Phi và Y ghép lại.

      (1). Huyện ủy - Hội đồng nhân dân -Ủy ban nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa; Địa chí huyện Quảng Xương, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010. Tr 625, 626.

      (1). Theo Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục- Chính biên- Bản kỷ thứ XXXIV ghi năm Đinh Tị (1677) Trịnh Tạc có sai Đinh Văn Tả đi đánh Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải chạy sang nhà Thanh, Cao Bằng bình định được. Sách có ghi Nguyễn Hữu Đăng đi cùng Đinh Văn Tả chứ không phải Ngyễn Hữu Huân. Chúng tôi không thấy ghi ai chết trận này?

      (1). Theo Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục- Chính biên- Bản kỷ thứ XXXIV ghi năm Đinh Tị (1677) Trịnh Tạc có sai Đinh Văn Tả đi đánh Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải chạy sang nhà Thanh, Cao Bằng bình định được. Sách có ghi Nguyễn Hữu Đăng đi cùng Đinh Văn Tả chứ không phải Ngyễn Hữu Huân. Chúng tôi không thấy ghi ai chết trận này? 

      (1) Đối chiếu với chính sử: Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký toàn thư, vào tháng 7 niên hiệu Thần Vũ thứ 1 (1069) nhà vua đem quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ đưa về…

      (1). Đại Việt sử ký toàn thư - Nhà xuất bản KHXH- Hà Nội 1994.

      (1). Thanh Hóa chư thần lục- Sdd - Ghi chép làng Đồn Điền thờ Đại càn Quốc gia Nam Hải.

      (1). Theo Khâm Định Việt sử Thông Giám Cương mục- Chính biên- quyển 3 ghi Năm Kỉ Dậu năm Thần vũ thứ 1(1069) mùa xuân tháng 2. Nhà vua tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, bắt được chúa Chiêm là Chế Củ đem về.

      (2). Thanh Hóa chư thần lục. Bản dịch Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội.

      (3) Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán triều Nguyễn- Nhà xuất bản Thuận Hóa 2006.

      (1)  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tập 2 NXB Thuận Hóa - 1997. Tr 293

      (2). Thanh Hóa tỉnh chí, bản đánh máy, tài liệu thư viện tỉnh Thanh Hóa.

      (1) Câu đối ở đền thờ Hoàng Bùi Hoàn - Trịnh Ngữ dịch

      (1). Câu đối ở đền thờ Hoàng Bùi Hoàn - Trịnh Ngữ dịch.

      (*) Huyện ủy-HĐND-UBND huyện Quảng Xương, Địa chí huyện Quảng Xương, Nhà XB Từ điển Bách khoa, 2010, tr.635-636.