Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa

Đăng ngày 13 - 11 - 2024
100%

Nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa là một trong những mô hình đang cho thấy hiệu quả kinh tế cao. Đây là quy trình nuôi tôm càng xanh kết hợp giữa trồng trọt và thủy sản. Cách thức này không những tiết kiệm diện tích mà còn góp phần gia tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích. Giúp tăng năng suất lúa, tăng thu nhập trên cùng diện tích, cải thiện môi trường, cách ly được mầm bệnh, thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống của người dân, tạo ra sản phẩm sạch và phát triển bền vững. Để giúp người dân hiểu rõ hơn về mô hình này, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện hướng dẫn một số biện pháp kỹ thuật nuôi luân canh tôm càng xanh trên ruộng lúa như sau:

1.Chọn địa điểm nuôi.

Địa điểm nuôi nên trong vùng được quy hoạch cho nuôi tôm càng xanh của địa phương. Địa điểm nuôi nên gần nguồn nước, thuận lợi cho việc cấp và thoát nước. Chất lượng nước phải đảm bảo các yếu tố sau: pH dao động từ 7-8; độ mặn giới hạn 0-15‰ cho nuôi tôm càng xanh và 0-4‰ cho trồng lúa.

Địa điểm nuôi có nguồn điện ổn định, giao thông thuận tiện, xa với khu dân cư đông người, các khu công nghiệp, nhà máy.

Mô hình sản xuất thuận thiên, nuôi luân canh tôm càng xanh - lúa theo hướng hữu cơ

2.Thiết kế ao, ruộng nuôi.

- Đối với ruộng có diện tích 01 ha, cần thiết kế 1.000 - 2.000 m2 ao ương vèo.

- Cải tạo thật tốt ao ương vèo và ruộng nuôi:

Đối với ao vèo (hay còn gọi là ao ương): Dùng để ương tôm post trước khi thả ra ruộng nuôi, thời gian ương dưỡng khoảng 60 ngày; do đó cần phải cải tạo thật kỹ, đúng quy trình để nâng cao tỷ lệ sống và cho ra một đàn tôm tốt. Sau khi thu hoạch lúa, dọn sạch rơm rạ, sên, vén bùn đáy mương, đưa nước vào ngâm rửa; sau đó rút cạn nước, bón vôi bung với liều lượng 70-100 kg/1.000 m2, phơi đáy 2- 3 ngày. Thời gian này cần gia cố bờ bao, cống bọng, rào lưới ngăn địch hại xâm nhập vào ao vèo.

+ Đối với ruộng nuôi: Cải tạo giống như ao vèo, nhưng đối với rơm rạ có thể đưa nước vào ngâm cho chúng phân hủy tự nhiên, sau đó xới, tháo nước rửa mặt ruộng vài lần để giảm bớt chất dinh dưỡng và khí độc trong đất.

Bờ bao quanh: chiều rộng mặt bờ 1-2 m; chiều rộng chân bờ 2-4m.

Mương bao quanh: diện tích mương: 20-30% diện tích ruộng lúa. Mương bao quanh được thiết kế như sau: Đào cách bờ 0,5m để tránh đất đá xói lở từ bờ xuống mương; chiều rộng mương : chiều rộng tầng nước mặt 2-3,0m, chiều rộng đáy là 1,0-1,5m; chiều sâu mương bao là 1,0-1,2m, mương dốc dần về phía cống.

Cống: Mỗi ruộng cần có một cống, cống có thể bằng xi măng hay ống sành, pvc….tùy điều kiện gia đình, tốt nhất nên dùng cống xi măng. Khẩu độ cống từ 30-40 cm.

Mặt trảng ruộng: là phần mặt ruộng còn lại dùng để trồng lúa. Để thuận lợi cho việc canh tác lúa và điều chỉnh mức nước trên ruộng, mặt ruộng nên bằng phẳng. Mực nước trên trảng có thể duy trì từ 0,2-0,7m

Nuôi luân canh tôm càng xanh trên ruộng lúa thích ứng với biến đổi khí hậu

3.Lấy nước và xử lý nước.

- Bước 1: Chọn con nước tốt lấy vào ao, ruộng nuôi; nước phải đạt các tiêu chuẩn sau: độ mặn từ 0-5‰, nước không nhiễm phèn, pH từ 6,5- 7, độ kiềm từ 40 mg/lít trở lên, nước trong sạch, không phù sa, không bị phát sáng. Nước phải được bơm qua túi lọc bằng vải KT để ngăn trứng cá, trứng tép và các loại chất lơ lửng khác, đây là khâu rất quan trọng trong khâu ương vèo. Mực nước trên mặt ruộng phải đạt từ 60 cm và dưới mương từ 80 cm trở lên.

- Bước 2: Lấy nước xong để 3-5 ngày, nếu thấy có cá tạp thì tiến hành thuốc cá diệt tạp. Trường hợp độ mặn trên 5‰ nên sử dụng saponine 15-20 g/m3, ngâm saponine qua đêm và tạt khắp ao, ruộng nuôi khi trời nắng tốt. Nếu độ mặn từ 5‰ trở xuống thì sử dụng rễ dây thuốc cá 10-15 g/m3, nên tạt lúc trời mát. Tuyệt đối không dùng thuốc bảo vệ thực vật để thuốc cá.

- Bước 3: Sau khi diệt tạp tiến hành khử trùng nước, nhất là trong ao vèo, để đảm bảo không còn mầm bệnh trong nước khi thả tôm; sử dụng thuốc tím 3- 5 g/m3 hoặc iodine 1,5 kg/ha.

- Bước 4: Trước khi gây màu nước, cần phải kiểm tra các yếu tố như pH phải đạt 7,0 và độ kiềm từ 40 mg/lít, nếu thấp hơn thì sử dụng vôi bung kết hợp Dolomite hoặc Super Canxi, liều lượng 100- 150 kg/ha. Lưu ý, nếu độ kiềm quá thấp nên tạt Dolomite vào ban đêm, khoảng 22-23 giờ.

- Bước 5: Gây màu nước; chọn 1 trong 2 cách sau để gây màu nước:

+ Cách 1: Sử dụng 1 trong 3 loại phân vô cơ sau: DAP 15 kg/ha hoặc NPK (20-20-0) 15 kg/ha hoặc Urê + lân (tỷ lệ 1:1) 15 kg/ha, ngâm cho tan hoàn toàn rồi tạt đều xuống ao lúc trời nắng tốt.

+ Cách 2: Sử dụng 3 kg cám gạo + 1 kg bột cá loại tốt + 1 kg bột đậu nành, tất cả nấu chín sau đó ủ với men vi sinh 2 ngày rồi hòa nước tạt cho 1.000 m3 nước.

Sau 5-7 ngày nước sẽ lên màu xanh vỏ đậu hoặc màu nâu cánh gián, kiểm tra các yếu tố môi trường ổn định ở mức cho phép như pH từ 7,5- 8,5, độ kiềm từ 80-120 mg/lít, độ trong 30- 40 cm thì tiến hành thả giống.

Lưu ý, khâu gây màu nước khá quan trọng ở giai đoạn ương tôm. Màu nước lên ổn định, độ trong từ 30- 40 cm chứng tỏ có tảo phát triển, đây là yếu tố giúp ổn định các yếu tố môi trường. Ngoài ra, tảo còn là mắt xích trong chuỗi thức ăn đầu tiên, kích thích động vật phù du và động vật đáy phát triển - là nguồn thức ăn tự nhiên rất tốt cho tôm, góp phần nâng cao tỷ lệ sống và tăng cường sức khỏe cho tôm.

Nuôi luân canh tôm càng xanh trong ruộng lúa giúp nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nông dân

4. Lựa chọn tôm giống và thả giống.

Chọn mua tôm càng xanh giống có chất lượng tốt từ các trại sản xuất có uy tín, tôm có nguồn gốc rõ ràng, được sản xuất theo quy trình đảm bảo chất lượng; tôm phải đồng đều về kích cỡ từ 1,2-1,5 cm, tỷ lệ đồng cỡ trên 90%; thân tôm cân đối, đuôi xòe khi bơi lội; tôm bám vào thành bể, lội ngược dòng, phản xạ nhanh với tiếng động; ruột đầy thức ăn. Nếu mua tôm càng xanh toàn đực phải có hợp đồng bảo đảm tỷ lệ đực trên 95%.

Thời điểm thả tôm là lúc sáng sớm hay chiều mát. Khi vận chuyển tôm về nhà, nên kiểm tra độ mặn. Nếu chênh lệch độ mặn dưới 5‰ thì có thể thả thẳng xuống ao, cần ngâm bọc tôm trong ao từ 15-20 phút để cho nhiệt độ nước bên ngoài và trong bọc cân bằng, sau đó mở bọc cho nước vào từ từ và cho tôm bơi ra ngoài. Nếu chênh lệch độ mặn từ 5‰ trở lên phải có thời gian để thuần dưỡng, cần chuẩn bị các dụng cụ như thùng, bể và sục khí. Thời gian thuần phụ thuộc vào độ mặn chênh lệch, trung bình mỗi giờ thuần được 4‰.

Mật độ thả nuôi: Giai đoạn ương vèo, từ 50-80 con/m2.

Tôm nuôi đảm bảo tỷ lệ sống, tôm giống phải khỏe mạnh. Bơi nhanh, đuôi xòe, màu sắc sáng không xay sát.

5. Quản lý và chăm sóc.

- Cần định kỳ kiểm tra các yếu tố môi trường trong ao nuôi, đảm bảo các yếu tố môi trường phải trong giới hạn cho phép: pH = 7,5-8,5; độ kiềm 80-120 mg/lít; độ trong 30- 40 cm; màu nước ổn định màu xanh vỏ đậu hay nâu cánh gián.

- Nhiệt độ: Tôm càng xanh tăng trưởng nhanh ở nhiệt độ 27-320C. Để nhiệt độ nước trong khoảng thích hợp cho tôm vào những ngày nắng nóng kéo dài, duy trì mực nước tối thiểu là 0,4m trên mặt trảng hoặc 0,8-1,2m ở mương bao. Mực nước trên trảng sau khi thu hoạch lúa duy trì ở mức 0,4-0,7m giúp giảm nhiệt độ nước.

- Oxy hòa tan: Tôm thích sống trong môi trường nước sạch, không nhiễm phèn và nhiễm bẩn. Nên đảm bảo oxy hòa tan trên 3 mg/l bằng cách định kỳ 2-3 lần/tháng thay nước trong ao.

- Độ mặn: Tôm sinh trưởng và phát triển tốt trong môi trường có độ mặn 0-10‰. Độ mặn ­10-15 ‰ tôm tăng trưởng chậm. Vì thế, vào tháng 12 đến tháng 1 năm sau khi độ mặn ở kênh nước cấp tăng, cần theo dõi độ mặn mỗi ngày để khi thay nước không làm tăng độ mặn nước ruộng nuôi đột ngột.

- Hàm lượng H2S và NH­3: Đây là các khí độc trong nước. Cần quản lý bằng cách:

+ Hạn chế thức ăn thừa: Kiểm tra sàng ăn để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp; dùng thức ăn có chất lượng tốt để cho tôm ăn.

+ Cải tạo ruộng nuôi đúng kỹ thuật như vét bùn và chất thải trong mương bao từ những vụ nuôi trước, lắng lọc nước, hạn chế các chất hữu cơ bên ngoài.

- Quản lý dịch hại: Cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch… tấn công trực tiếp đến tôm hay gián tiếp cạnh tranh thức ăn. Để hạn chế dịch hại, bờ ao cần được rào lưới xung quanh, kiểm tra hang hốc, lỗ mọi và lọc nước kỹ để tránh dịch hại vào ruộng nuôi. Nếu có cá tạp thì chài hay giăng lưới hoặc kéo lưới bắt cá.

Thay nước:

Đối với tôm càng xanh việc thay nước rất quan trọng, cần chủ động và thay nước thường xuyên, lượng nước thay từ 20-30% nước trong ruộng. Khi cấp nước cần kiểm tra và đảm bảo chất lượng nguồn nước cấp vào không bị ô nhiễm.

Theo dõi và quản lý sức khỏe tôm nuôi: Trong quá trình nuôi cần chú ý theo dõi tôm nuôi trong ruộng để có biện pháp điều chỉnh kịp thời và hợp lý. Hàng tuần cần chài tôm để quan sát đường ruột nhằm đánh giá mức độ bắt mồi, những dấu hiệu của bệnh trên tôm (quan sát mang, màu sắc, khối cơ, những biến dạng khác của tôm…), cần theo dõi và dự đoán thời kỳ lột xác của đàn tôm nuôi trong ruộng để có những điều chỉnh về lượng thức ăn, quạt nước, sục khí, hoặc chuẩn bị thu hoạch…

Thức ăn:

- Thức ăn tự nhiên: Những loại thức ăn có sẵn trong ruộng lúa bao gồm những động thực vật thủy sinh.

- Thức ăn tươi: Bao gồm những loại động vật cá, tép, cua, ốc, hến và các chế phẩm sinh học.

- Thức ăn công nghiệp: Thức ăn được sản xuất công nghiệp, đảm bảo chất lượng thức ăn, đầy đủ chất dinh dưỡng, cho ăn vừa đủ.

- Giai đoạn ương vèo, tháng đầu cần cho tôm ăn 4 lần/ngày, liều lượng thức ăn từ 1,5- 2 kg/ngày cho 100.000 tôm post ở tuần đầu tiên, tuần kế tiếp lượng thức ăn gấp 1,5 lần tuần đầu; chọn thức ăn có chất lượng tốt 35-42%  đạm, kích cỡ viên thức ăn phù hợp với giai đoạn phát triển của tôm. Tháng thứ 02 cho ăn 2 lần/ngày. Thức ăn được rải đều khắp mặt ruộng, mương bao và đặt trong sàng ăn. Sau 1-2 giờ kiểm tra sàng, nếu thức ăn còn dư thì giảm thức ăn cho lần thức ăn tiếp theo. Nếu thấy tôm còn trong sàng nhưng đã hết thức ăn thì tăng lượng thức ăn ở lần sau. Khi tôm ăn no, quan sát tôm sẽ thấy thức ăn tôm trong dạ dầy và ruột của tôm.

Khẩu phần thức ăn của tôm:

Thời gian

nuôi (ngày)

Khối lượng

bình quân

(gam/con)

Khẩu phần cho ăn (% khối lượng thân/ngày)

Thức ăn cho vào nhá

(% khẩu phần ăn/ngày)

30 - 40

2

5.5

1

41 - 50

5

5.2

1.2

51 - 65

10

4.8

1.4

66 - 80

15

4.4

1.6

81 - 95

20

4.0

1.8

96 - 110

25

3.6

2.0

111 - 125

35

3.2

2.2

126 - 140

35

2.8

2.0

141 - 155

45

2.4

1.8

156 - 180

55

2.0

1.6

 

 

- Khi tôm được 60 ngày thì bắt ra san qua ruộng nuôi. Có thể sử dụng chài, kéo lưới để bắt tôm san qua ruộng nuôi, thời điểm thực hiện lúc sáng sớm hoặc chiều mát để tránh cho tôm bị sốc. Khi bắt tôm, tiến hành bẻ càng rồi thả qua ruộng nuôi thương phẩm.

- Trong ao ương vèo và ruộng nuôi nên bố trí một số chà chất thành đống để tôm có chỗ lẩn trốn vào chu kỳ lột xát.

* Phương pháp bẻ càng:

Phương pháp bẻ càng được thực hiện trên tôm càng xanh toàn đực, sau khi bẻ càng giúp cho tôm lớn nhanh hơn, tăng kích cỡ và cải thiện màu sắc khi thu hoạch, hạn chế hao hụt do ăn thịt lẫn nhau vào những ngày lột xát.

Sau khi thả được 60 đến 75 ngày, người nuôi tiến hành bẻ càng. Lưu ý bẻ càng ở vị trí khớp gần cơ thể và tạo điều kiện cho tôm tự bỏ càng để hạn chế tôm bị thương bằng cách giữ chặt hai càng, để tôm búng tự nhiên. Sau thời gian nuôi thêm 3-4 tháng, hai càng tôm sẽ tự mọc trở lại.

Sau khi bẻ càng và cho ra ruộng nuôi, chăm sóc tôm bình thường, ngày cho ăn 02 lần bằng các loại thức ăn chuyên dùng cho tôm và có thể bổ sung thêm khoai, dừa, lúa mọng.

6. Phòng một số bệnh cho tôm càng xanh:

Phải tiến hành cấp nước hoặc thay nước định kỳ để kích thích tôm lột xác, có thể trộn Vitamin C vào thức ăn kết hợp men vi sinh đường ruột nhằm tăng cường khả năng tiêu hóa cho tôm nuôi tại những thời điểm cần thiết.

6.1. Bệnh lột xác dính vỏ.

Bệnh này thường xảy ra khi ấu trùng ở giai đoạn 10-11,khi ấu trùng lột xác vỏ bị dính lại ở chủy (dạng nhẹ), dính ở chân ngực, không bơi được và chết, xảy ra chủ yếu vào ban đêm khi tôm lột xác. Tỷ lệ lột xác bị dính thường từ 10-30%.

Nguyên nhân: không xác định được rõ ràng, có thể do hàm lượng khí độc trong bể nuôi cao.

Phòng trị bằng cách, cho formalin 10 - 15 ppm kích thích tôm dễ lột xác, cho thêm Lecithin vào trong thức ăn, giúp hạn chế mắc bệnh.

6.2. Bệnh hoại tử.

Quan sát trong bể nuôi thấy ấu trùng bơi không bình thường, hoặc chìm nhiều ở đáy bể, quan sát trên kính hiển vi thấy các phần phụ cuả ấu trùng bị ăn mòn, hoặc cụt như chủy, chân bụng, chân ngực, chỗ bị ăn mòn có màu vàng cam. Khi bị bệnh nặng, không trị kịp thời ấu trùng chết nhiều.

Nguyên nhân: chủ yếu do môi trường nuôi bị thay đổi đột ngột, trong đó yếu tố nhiệt độ là chủ yếu. Khi nhiệt độ nước nuôi trên 290C thường bị bệnh này.

Phòng trị bệnh: Khống chế nhiệt độ nước nuôi ổn định từ 27-280C, lúc thay nước chú ý các yếu S‰, pH, t0 …phải đồng nhất, sẽ ít gặp bệnh này. Khi phát hiện bệnh phải trị kịp thời có thể sử dụng một số kháng sinh.

6.3. Bệnh đen mang.

Bệnh này thường xuất hiện vào giai đoạn 5-8 trong chu kỳ phát triển của ấu trùng, khi ấu trùng bị nhiệm bệnh, hàng ngày khi xi phông bể có thể thấy chết nhiều, trên mặt bể xuất hiện xác tôm chết nổi lên. Xem trên kính hiển vi thấy nhiều chấm đen trên các tấm mang, bị nặng tôm chế nhiều, cần phát hiện sớm thông qua xem ấu trùng trên kính hiển vi, trị kịp thời sẽ khỏi bệnh. Tác nhân gây bệnh nhiều tác giả cho rằng, do trong thức ăn thiếu hụt vitamin C, cần tăng cường vitamin C cho vào trong thức ăn chế biến.

Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh kết hợp với việc tăng thêm vitamin C trong thức ăn.

6.4. Bệnh dính chân.

Bệnh này thường gặp trong sản xuất giống tôm càng cũng như tôm sú. Tác nhân gây bệnh do vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria) và vi khuẩn không phải dạng sợi, một số loài tảo, nguyên sinh động vật. Khi quan sát ấu trùng tôm trên kính hiển vi thường thấy xuất hiện đầy đủ các loại này, nhưng vi khuẩn dạng sợi là chủ yếu. Chúng bám vào các sợi lông tơ, số lượng nhiều tôm bơi lội khó khăn và các lông tơ rụng dần, sau đó tổn thương các phần phụ như chân bụng, đuôi, chủy… bị nhiễm nặng tôm chết đồng loạt, nhất là các giai đoạn nhỏ.

Trị bệnh này phải dựa vào sự quan sát trên kính hiển vi, xác định loài nào gây bệnh chủ yếu trị trước sau mới trị bệnh tiếp theo.

Ví dụ: Gây bệnh do vi khuẩn dạng sợi là chủ yếu và có cả nguyên simh động vật (Zoothamnium). Trị bệnh do vi khuẩn dạng sợi trước, sử dụng CuSO4 với nồng độ 0,3ppm sau 24 giờ là khỏi bệnh; ngày sau đó thay nước 80%, sau 2 ngày trị tiếp bệnh do nguyên sinh động vật gây ra.

6.5. Bệnh đốm nâu.

Bệnh đốm nâu xuất hiện quanh năm và tấn công từ cà tôm ấu trùng đến tôm trưởng thành. Nhưng khi bị bệnh thì tỷ lệ hao hụt của tôm ấu trùng cao hơn tôm lớn.

Người ta còn gọi bệnh này là bệnh hoại tử, do vi khuẩn gây ra và cũng do môi trường sống của tôm không hợp vệ sinh.

Trên mình tôm xuất hiện nhiều đốm nâu to nhỏ khác nhau, những đốm này trước màu nâu sau trở sang đen và xuất hiện dưới lớp vỏ kitin và lớp biểu mô của tôm.

Tôm bị bệnh này trở nên kém ăn, mất sức, gầy óp. Tôm con dễ chết hơn tôm lớn.

Phòng bệnh: phải thay nước thường xuyên, thả tôm với mật độ vừa phải. Cho tôm ăn bổ dưỡng hơn, để tôm có sức đề kháng chống chọi lại bệnh. Hiện nay, chưa có thuốc đặc trị về bệnh này.

7. Thu hoạch.

Sau thời gian nuôi khoảng 4 tháng có thể tiến hành thu hoạch, chủ yếu là những cá thể không có khả năng phát triển (tôm càng xào, ốp vỏ). Việc thu hoạch cần lưu ý đến kích cỡ, chất lượng tôm nuôi và giá cả thị trường. Thu hoạch tôm càng xanh cần phải tiến hành thu nhiều lần.

Trước tình hình như hiện nay, việc nuôi tôm biển ở những vùng ngọt hóa, vùng ngoài quy hoạch, vùng có độ mặn thấp gặp quá nhiều rủi ro và khó khăn thì việc phát triển nuôi đối tượng tôm càng xanh toàn đực bán thâm canh nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi để hạn chế rủi ro nhằm phát triển ổn định nghề nuôi trồng thủy sản phù hợp với định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần vào việc thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh nhà.

 Lưu ý:

Lúa được cấy 15 ngày trước khi thu hoạch tôm càng xanh giống và thả nuôi trên ruộng. Thời điểm cấy lúa, độ mặn trong ruộng là 0-4‰.

Sử dụng phân bón cho lúa nếu không cho tôm ăn. Khi cho tôm ăn không cần bón phân cho lúa vì chất dinh dưỡng cho lúa từ vụ nuôi trước và nuôi tôm càng xanh xen canh.

Mực nước trên trảng khi trồng lúa từ 0,1-0,3 m tùy theo sự phát triển của cây lúa, hạn chế tối đa sử dụng thuốc, hóa chất cho lúa vì có thể ảnh hưởng đến tôm nuôi. Năng suất lúa thu hoạch có thể đạt 4-5 tấn/ha/vụ.

Sau khi thu hoạch lúa, giữ nguyên gốc rạ và nâng mực nước trên trảng càng cao càng tốt, mực nước trên trảng có thể duy trì 0,4-0,7m để tôm càng xanh được phát triển tốt. Tôm càng xanh được thu hoạch khoảng 1 tháng sau khi thu hoạch lúa./.             

<

Tin mới nhất

Những lưu ý khi trồng và chăm sóc hoa Thược Dược trong chậu(19/01/2025 10:01 SA)

Một số lưu ý trong chăm sóc lúa Xuân giai đoạn đẻ nhánh(19/01/2025 9:39 SA)

Hướng dẫn một số biện pháp quản lý sâu bệnh hại trên cây hoa Cúc(29/12/2024 9:15 SA)

Hướng dẫn một số biện pháp phòng chống rét cho động vật thủy sản(25/12/2024 4:15 CH)

Hướng dẫn các biện pháp phòng, chống rét cho đàn vật nuôi vụ Đông Xuân năm 2024-2025(15/12/2024 9:34 SA)

Tăng cường các biện pháp phòng, chống bệnh Sởi trên địa bàn huyện Quảng Xương.(19/02/2025 4:21 CH)

Huyện Quảng Xương long trọng tổ chức lễ giao, nhận quân năm 2025(14/02/2025 4:26 CH)

Ban Tổ chức Huyện ủy tổ chức hội nghị tập huấn sử dụng phần mềm Theo dõi tiến trình đại hội Đảng...(14/02/2025 4:08 CH)

Quảng Xương hợp nhất Ban Tuyên giáo với Ban Dân vận Huyện ủy(14/02/2025 3:30 CH)

Thanh niên huyện Quảng Xương sẵn sàng lên đường nhập ngũ năm 2025(12/02/2025 5:00 CH)

Trung tâm Y tế huyện Quảng Xương khuyến cáo người dân thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh...(11/02/2025 11:10 SA)

Quảng Xương phát động Tết trồng cây đầu Xuân Ất Tỵ 2025(03/02/2025 3:58 CH)

Lễ hội Đền Phúc và Bia Tây Sơn, hội thi chơi cờ người và đua thuyền truyền thống xã Quảng Nham,...(03/02/2025 3:40 CH)

Các đồng chí lãnh đạo huyện thăm, chúc Tết một số đơn vị làm nhiệm vụ đêm giao thừa dịp Tết...(31/01/2025 4:09 CH)

Các đồng chí lãnh đạo huyện Quảng Xương viếng Nghĩa trang liệt sỹ nhân dịp Tết cổ truyền của dân...(25/01/2025 9:19 SA)

Hội Khuyến học huyện Quảng Xương Tổ chức Tết khuyến học khuyến tài Xuân Ất Tỵ 2025(22/01/2025 10:52 SA)

Chủ tịch UBND huyện Quảng Xương Nguyễn Huy Nam thăm, kiểm tra sản xuất, đời sống Nhân dân tại thị...(22/01/2025 10:40 SA)

Đồng chí Nguyễn Huy Nam – Phó Chủ tịch UBND huyện thăm và chúc tết, tặng quà tại xã Quảng Yên,...(20/01/2025 3:17 CH)

Hội Khuyến học xã Quảng Ninh tổ chức Chương trình “ Tết khuyến học, Xuân Ất Tỵ năm 2025”(19/01/2025 9:45 SA)

Liên đoàn Lao động huyện tổ chức chương trình “Tết sum vầy – Xuân ơn Đảng", năm 2025(19/01/2025 9:36 SA)

Liên đoàn Lao động huyện Quảng Xương tổng kết phong trào CNVCLĐ và hoạt động Công đoàn năm 2024,...(19/01/2025 9:33 SA)

Đồng chí Nguyễn Thị Sơn – UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức huyện ủy Quảng Xương đã đi thăm tặng quà gia...(19/01/2025 9:27 SA)

Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Xương tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động ủy thác năm...(19/01/2025 9:06 SA)

Huyện Quảng Xương gặp mặt các đồng chí nguyên lãnh đạo huyện qua các thời kỳ nhân dịp đón Xuân Ất...(17/01/2025 5:07 CH)

Đồng chí Đỗ Đình Cường – UV BTV Huyện ủy, Trưởng Ban Dân vận, Chủ tịch UB MTTQ đã đi thăm tặng...(16/01/2025 9:08 CH)

Đồng chí Bí thư Huyện ủy Nguyễn Quốc Tiến trao tặng quà Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025 tại xã...(16/01/2025 8:40 CH)

Quỹ Bầu ơi trao quà Tết cho người dân tại huyện Quảng Xương(13/01/2025 3:27 CH)

Quảng Xương tổ chức hội nghị tổng kết công tác thi đua khen thưởng năm 2024 và phát động các...(13/01/2025 2:48 CH)

HĐND huyện Quảng Xương khóa XXI, nhiệm kỳ 2021-2026 tổ chức kỳ họp thứ 23 (Kỳ họp chuyên đề)(10/01/2025 10:34 SA)

Ủy ban MTTQ huyện tổng kết công tác mặt trận năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025(08/01/2025 3:59 CH)

Huyện Quảng Xương trao thưởng cho giáo viên và học sinh đạt thành tích xuất sắc năm học 2024-2025(08/01/2025 9:27 SA)

Thường trực HĐND huyện Quảng Xương tổ chức phiên họp thứ 59 (07/01/2025 4:38 CH)

Thị trấn Tân Phong huyện Quảng Xương kỷ niệm 5 năm ngày thành lập Đảng bộ(06/01/2025 4:26 CH)

Huyện uỷ Quảng Xương tổ chức hội nghị tổng kết các Ban xây dựng Đảng năm 2024; triển khai nhiệm...(06/01/2025 4:10 CH)

Huyện Quảng Xương tổ chức hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc...(05/01/2025 5:07 CH)

°
1109 người đang online